THƯ MỤC

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Đế Minh, Đế Nghi, Kinh Dương Vương


Dịch lại Ngọc phả Hùng Vương, đoạn đầu tiên về ba vị Đế Minh thái tổ, Đế Nghi đế bá, Kinh Dương Vương hoàng phụ.

Xưa kia từ thời Hoàng Đế, cháu ba đời của Viêm Đế là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi tuần du phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh. Đế Minh gặp được con gái của Vụ Tiên nương, mà sinh ra Kinh Dương Vương, húy là Lộc Tục. Vua ở ngôi hai trăm năm mươi năm, thọ hai trăm năm mưới bảy năm. Hóa tiên về biển cùng với con gái Động Đình Quân là Ngọc Dung.
Vua có dung mạo đoan chính, thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh thấy có trí tuệ kỳ lạ, có ý lập kế tự, muốn truyền ngôi báu cai quản muôn nước. Nhưng Dương Vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, còn phong cho Kinh Dương Vương cai trị thiên hạ ở mặt Nam, xưa là quận Giao Chỉ. Kinh Dương Vương đổi thành động Xích Quỷ, tên là nước Xích.
Xưa Dương Vương vào ngày mồng năm tháng hai năm Nhâm Tuất, vâng lệnh đem quân lính dời đến núi Nam Miên, trấn giữ và cai trị đất nước. Trên đường Vua ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa, có đại cuộc chân long quý mạch, để lập đô ấp, trấn trị thiên hạ. Qua đất Hoan Châu (xưa là Hoan Châu, nay là Nghệ An) Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc phong cảnh tươi đẹp, như lâu đài muôn nhẫn, gọi là Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, xưa gọi là Cựu Đô Ngàn Hống. Vùng đất này non biển đúc linh, núi sông khe hồ hội chầu, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành cung điện lâu đài cửa ngọc, làm nơi cho bốn phương triều cống.
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình, núi xanh nước biếc. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng, nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông đẹp núi lạ. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, theo từ động núi Ngũ Lĩnh Vân Nam của cả nước, tiếp gặp Ải Môn Ngưỡng Đức nước lớn, như hình chữ Bát. Xuyên núi thấu mạch dẫn tới Cao Bình, Lạng Sơn, Càn Hải chín châu. Các núi cao vút, bỗng nổi lên thành ba ngọn núi [Tam Đảo], rồng trắng giáng khí ở châu Thái Nguyên, chợ trời bàn đá [Thiên Thị Thạch Bàn], nước chảy khe trên, ngược núi ngược sông, mạch dẫn liên miên.
Đưa tới các châu Bảo Lạc, Bằng Du, Thu Vật, Lục Yên, đầu nguồn nước từ Hoàng Hà, Hán Giang, Lô Giang, Càn Thủy, mà chảy dẫn mạch giáng khí, gặp nước ròng mạch nhỏ Ải Môn, rồng dẫn đi xa, tới núi Nam Miên là đất Tuyên Quang, thế rõ từ núi Tụ Long, liền tới châu Thu Vật, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn.
Mạch đất chảy ở giữa chia trái phải. Sông Hán, sông Hoàng, sông Bảo hai bên dẫn mạch. Chảy tới Lâm Thao, Đoan Hùng, Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Long Hoa, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc. Núi lạ sông đẹp, ngọc tụ nước ngưng, chân đá giáp nước, trái phải cùng đổ về, là chính đường của vạn nhánh, hội tụ chính khí. Bên ngoài chia các huyện Nam Giang, Bắc Giang, Thiên Lịch Giang, Tô Lịch, Tam Dương. Bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung bên trái là rồng xanh, nghìn núi vạn sông chảy ra ở Lập Thạch, Bạch Nê, Châu Diên. Núi xanh nước biếc, đất sáng như mở ngọc bội, các núi giúp chuyển, tới xứ Kinh Bắc các núi Chu, Sóc, Trà, Từ, Mộc Hoàn, Tích An, An Lão phục chầu. Dẫn đến xứ Hải Dương các núi Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử, thoát ra biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.
Bên phải đất từ Ba Thục, Hán Giang, Hoàng Giang, Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười sáu châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, châu Đà Bắc, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung bên phải là hổ trắng. Núi chầu vạn nhánh, nổi lên ở Mỹ Lương, Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Viễn Sơn Thạch Thất, An Sơn, Tây Sơn, Sài Sơn, Tử Trầm, Hữu Bật đến xứ Sơn Nam Chương Đức, Đại Yên, núi Hương Tích sơn, núi Thạch Na, Nam Công, núi Vũ Phượng, núi Đội Điệp, núi Nghi Dương, chầu vào mà thoát, đến cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Vạn Lý, làm đầu hổ chầu án. Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy Ngã Ba Lãnh, Đại Giang, huyện Nam Giang làm Trung minh đường. Mặt nước như ấn ngọc trông phù vàng. Tiền Hải, Cổ Yếm, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất Bắc quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến đất bên nơi ngoại này, lập dựng đô thành Phong Châu, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại định đô ấp, vị trí của chính điện, thành trời ao vàng, ở núi Nghĩa Lĩnh, làm đô ấp của họ Việt Thường xưa tại đó.
Bấy giờ vua đi tuần thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Cung phi con gái đế quân là Thần Long cùng với Vua sống ở núi Kỷ Lĩnh, điềm rồng khí chính, thụy thánh có mang. Mang thai mười lăm tháng mười ngày. Đến kỳ mây rồng năm sắc giáng xuống chính điện. Vua sinh hạ Lạc Long quân, tên huý là Sùng Tục. Trước Long Quân có tỏ điềm rồng ứng tốt, ánh sáng đầy nhà, trong trướng tỏa hương thơm. Qua tuần sinh hạ Lạc Long Quân, tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương. Vua mới lập làm hoàng thái tử. Thái tử trưởng thành, tài năng hơn người, thông minh nhanh nhẹn, tài thần trí thánh, anh hùng hiểu biết. Năm tháng tăng thêm, Đế lệnh với triều đường trăm quan rằng: Ta thừa mệnh trời mà trị vạn dân, giữ yên cơ đồ, sắc lệnh cho Thái tử khâm sai cùng với trăm quan cử hành lễ đi tuần thú lãnh thổ, chính là để xem núi sông, những nơi biển non kỳ lạ. Vua khiến Thái tử điều trăm viên tướng mạnh, ba vạn binh tinh đi tuần thú nước nhà, xem xét bốn bể, địa thế núi sông.
Thái tử đi đến Nam Bang, thế đất theo núi sông dẫn mạch mà đến, lên núi tìm theo mạch rồng, tựu ở xứ Tuyên Quang, châu Thu Vật, Tụ Long, nhìn thấy mạch đất rồng chạy đến, Nghĩa Lĩnh đúc thiêng,  gặp qua thượng lưu sông Hoàng Hà, Nhị Hà, Đầu Giang, Hán Lô Giang, đầu nguồn một nhánh chảy ra, nuôi dưỡng che chở nước Nam, từ Tây rồng đến, từ châu Bảo Lạc núi Côn Lôn trên dưới hai bờ, cho đến cửa ải, nước lớn từ Ngũ Lĩnh, Thái tổ Côn Lôn của đất nước, đất tổ Linh Sơn Phong Thứu. Trăm vạn đầu núi dựa Đông Tây Nam Bắc, làm được như bầy con. Lấy Côn Lôn Ngũ Nhạc đại tổ quốc làm Thái tổ, cha mẹ, cùng vạn nước đầu núi góc biển, một mối quy đồng. Thái tử trí thánh thông minh, tài anh mưu lớn, là vị vua có chí trị, danh hiền Việt cổ.
Thái tử có tâm với các bậc tổ, quay về nước lớn thăm hỏi tổ là Đế Minh, bác là Đế Nghi. Thái tử là người có hiếu đễ lớn, trung tín khiêm nhường, có tam cương ngũ thường, là bậc có đức cả. Thái tổ mới đặt quốc thư phong cho Kinh Dương Vương là Thái Tổ Cao Hoàng Đế nước Nam, phong cho Lạc Long Quân là Hiền Vương nước Nam, cai trị Nam Bang. Vạn dân trong thiên hạ đều hân hoan, trăm họ yên vui. Đế tổ, Đế bá coi Thái tử như cốt nhục, xem như tinh túy đất trời, quý như châu ngọc vàng báu, vật quý cũng không bằng.
Đế tổ sắc phong tặng thêm cho Thái tử sách vàng, thẻ bài rồng, lụa ngọc, xe sách một mối, áo mũ chầu trời, áo bào cổn rồng, thắt lưng ngọc, giày vàng, cờ lọng quạt, ô vàng chiêng trống, xe loan giá rồng, voi ngựa tướng binh, lại ban cho đồ thần lụa vàng (vật quý lớn của trời Nam), ngọc châu mã não, quý lạ các vật, lại ban cho xe giá có chuông. Thái tử hồi giá khải hoàn về Nam Man, phụng giúp vua cha cai quản vạn dân.
Thời Thái tổ Đế Minh trong triều có vị Thiên sư biết thông trời đất người, xem thấy hết quỷ thần, chức vị ở Bắc triều là quan tướng, văn võ đều toàn. Nay theo lệnh Đế tổ sai Thiên sư giúp nước cho Thái tử cai quản Nam Bang, xem phong thủy, tìm đất lập nước định kinh đô, xây dựng thành trì, sửa sang chính điện, tạo nên cung thất, lãnh thổ đất đai, đặt tên sông núi, lập định ấp đô, địa đồ đất nước, sắp quan xếp tướng, đặt lệnh trấn các xứ, phủ, huyện, xã, châu, trang, động. Trên rừng dưới biển, nước có Thiên sư phụ giúp Vua cai trị bốn biển. Trăm họ nhân dân thiên hạ cùng hưởng phúc thái bình. Các chư hầu Bách Man đều xưng thần phụ thuộc.

Họ Hồng Bàng

 Tục truyền rằng vua đầu nước ta hiệu Kinh Dương Vương và vua đầu Bắc quốc hiệu Đế Nghi là hai anh em, con ngài Đế Minh, cháu 3 đời Viêm Đế Thần Nông. Viêm Đế Thần Nông là vị thần coi về trồng trọt ngũ cốc cho loài người.

Một hôm Ngọc Hoàng thượng đế trông xuống cõi trời Nam, thấy trên mặt đất phần lớn là hoa quả, ít ngũ cốc, mới bảo Thần Nông rằng:
- Ta sắc chỉ sai nhà ngươi xuống trần gian giúp cho giống người da vàng trồng lúa làm lương ăn.
Thần Nông bèn hội họp con cháu kể lại sắc chỉ của Ngọc Hoàng. Đế Minh là cháu ba đời nói rằng:
- Công việc mùa màng ở hạ giới rất vất vả. Vậy cháu xin đi thay.
Thần Nông khen Đế Minh là hiếu thảo, đưa cho hai hạt thóc, một để ăn, một để làm giống đem đi.
Đế Minh và vợ đáp mây lành xuống ở núi Nghĩa Lĩnh. Hàng ngày hai vợ chồng cậy một hạt thóc lấy bột gạo ăn, còn chiếc vỏ trấu để lại, sau dân thờ làm trấu thần.
Lại nói việc dạy dân trồng lúa. Vùng cao thì ông bà dậy họ phát nương đốt trà, chọc lỗ tra hạt (đao canh), vùng thấp thì đợi nước sông rút cạn, ruộng bãi đã thối ngấu cây cỏ, lấy trang cào mà đẩy cho sục bùn, đều phẳng, rồi gieo giống (thuỷ nậu). Lại dạy dân bỏ gạo vào ống tre đốt làm cơm mà ăn, bắt tôm cua làm mắm dùng gừng giềng làm gia vị, chưng cốt gạo lấy rượu uống, bắc gỗ làm nhà sàn tránh hổ sói, cưới xin thì lấy gói đất làm đầu, giết trâu dê làm đồ lễ, nấu cơm nếp nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm. Khi có người chết thì giã cối làm hiệu để bản làng đến cứu giúp.
Đế Minh sinh được hai con trai, anh là Lộc Tục, em là Lộc Linh. Một hôm có sứ của Ngọc Hoàng xuống triệu Đế Minh về trời. Ông gọi hai con đến bảo:
- Ngọc Hoàng sai ta xuống hạ giới có kỳ hạn, nay đã làm xong công việc. Trước khi về trời ta phong cho Lộc Tục cai quản phương Bắc. Lộc Linh cai quản phương Nam.
Lộc Tục cố nhường cho em phương Bắc, còn mình ở phương Nam. Đế Minh nghĩ “Lộc Tục thông minh hơn cho đất rộng hơn, chẳng ngờ lại từ tạ”, bất đắc dĩ cũng bằng lòng.
Lộc Linh nhận phương Bắc xưng là Đế Nghi.
Lộc Tục nhận phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương có tài đi lại dưới nước, gặp Thần Long Nữ con gái vua Động Đình Hồ nhan sắc đẹp tươi, bèn lấy làm vợ. Thần Long Nữ sinh ra một người con trai mình đầy vảy rồng, đặt tên là Sùng Lăm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng hiệu là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân đi tuần thú tới động Lăng Xương gặp Tiên nữ Âu Cơ hái dâu bên bờ sông Đà, bèn lấy làm vợ đưa về ở núi Nghĩa Lĩnh.
Âu Cơ có mang ba năm ba tháng mười ngày, đến giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý chuyển dạ sinh ra một bọc trăm trứng. Hôm ấy trời xanh nắng ấm, mây lành ấp núi, hương thơm ngan ngát đầy phòng.
Long Quân cho triệu triều thần đến lập đàn tế cáo trời đất. Các loài sơn cầm thuỷ tộc đều đến chầu mừng. Ngày 15 tháng Giêng năm ất sửu trăm quả trứng nở thành trăm con trai. Những người con này không bú mớm, chỉ ăn hoa quả, không nói năng, mỗi ngày cười 3 lần. Bỗng một hôm tất cả đều hô vang "Trời sinh vua trị nước, thiên hạ thái bình". Vợ chồng Âu Cơ rất mừng rỡ, nhưng không biết làm thế nào để phân biệt được đàn con đông đúc ấy, bèn đem lễ vật mời ông Tiên ngồi câu cá ở bến Việt Trì lên đặt tên cho từng người. Tiên ông đặt tên người con cả là Lân Lang, chín mươi chín người em cũng đều gọi là Lang như Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang...
Long Quân bảo Âu Cơ rằng:
- Ta là giống Rồng đứng đầu thuỷ tộc. Nàng là giống Tiên sống ở trên núi. Tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly, ta đem 50 con về miền bể chia trị các xứ, cho 50 con theo nàng lên núi, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên. Trước khi đi, Long Quân phong cho người con trưởng làm vua và bảo các con rằng: "Giống sơn nam và giống thủy tộc thường ghét nhau. Hãy lấy mực săm mình cho giống giao long thì lội xuống nước mới không bị hại”. Lại dặn: "Khi nào có nguy cấp thì gọi to: “Bố ơi về cứu con”, "ta sẽ đến ngay”.
Lân Lang bèn xưng là Hùng Quốc Vương, đóng đô ở Việt Trì, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ, sai các em đi trấn giữ. Kể từ đây các vua nối đều lấy hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời (Đầu là Kinh Dương Vương, cuối là Hùng Duệ Vương

Đền Đôi Cô Tuyên Quang

 

      Đền Đôi Cô Tuyên Quang thuộc phường Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang. Đền Đôi Cô Tuyên Quang thờ Cô Đôi Thượng Ngàn và Cô Bơ Thoải Cung. Đó là hai thánh cô nổi tiếng trong Tứ Phủ Thánh Cô.

 

     Đền Đôi Cô được dựng trên một gò đất  ngay đầu cầu Nông Tiến bắc qua sông Lô luôn trong xanh. Đền Đôi Cô được xây dựng từ rất xa xưa, nhưng từ bao giờ thì không ai còn rõ. Thần phả, thánh tích về ngôi đền, do thăng trầm của lịch sử, nay cũng không còn, chỉ biết đây là một ngôi đền đã tồn tại từ lâu ở vùng đất ven sông Lô của Thành Phố Tuyên Quang. Đền Đôi Cô là một điểm tham quan tâm linh của một số tua du lịch tâm linh tỉnh Tuyên Quang.

 

Đền Đôi Cô Tuyên Quang

Lịch sử Đền Đôi Cô Tuyên Quang

     Trước đây,  Đền Đôi Cô chỉ có một cung nhỏ rộng vẹn vẹn chỉ khoảng chục mét vuông và rất ít người biết đến. Năm 1990, ngôi đền mới được tu sửa và mở rộng ngôi đền. Toàn bộ kinh phí xây dựng đền là tiền công đức của nhà đền và của khách thập phương. 

Kiến trúc Đền Đôi Cô Tuyên Quang

      Đền Đôi Cô sau khi được trùng tu, tu bổ đã khang trang, tố hảo hơn rất nhiều so với trước đây. Hiện Đền Đôi Cô được xây dựng với ba gian thờ, ứng với ba cung.

       Cung chính thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Đôi Cô. Bộ tượng Tam toà Thánh Mẫu được đặt trong khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng.  Chính giữa khám là tượng Mẫu Thượng Thiên; bên phải khám là tượng Mẫu Thoải; bên trái khám là tượng Mẫu Thượng Ngàn. Bộ tượng Đôi Cô được đặt trong khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, ngay bên dưới khám thờ Tam tòa Thánh Mẫu. 

      Cung bên trái thờ Bà Chúa Sơn trang. 

      Cung bên phải thờ đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

     Ngoài các cung trong đền chính ra, Đền Đôi Cô còn có Am thờ Sơn Thần và Lầu Cô thờ Tứ Phủ Thánh Cô.  Lầu Cô có thờ tượng ba vị Thánh Cô: Cô Chín, cô Tư, cô Bảy.

     Cũng lưu ý rằng, tại Tuyên Quang còn có một đền Đôi Cô khác nằm tại Phường Hưng Thành có tên là Đề trình Đôi Cô hay Đền trình Đôi Cô. Đền này còn có tên là Đền Móc Giằng.