Hiển thị các bài đăng có nhãn Triều đại Việt. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Triều đại Việt. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 4 tháng 9, 2021

Tìm hiểu về 18 vị vua Hùng trong ngày Giỗ tổ Hùng Vương


Ngày giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch là quốc lễ của Việt Nam nhằm tưởng nhớ các vị vua Hùng đã có công dựng nước. Tuy nhiên 18 vị vua Hùng gồm những ai?

Ngày Giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là Lễ hội Đền Hùng là dịp quốc lễ của Việt Nam. Đây là dịp để người dân, những thế hệ sau nhớ tới công ơn của các vị vua Hùng trong công cuộc dựng nước. Vào năm 2007, Quốc hội đã quyết định chọn 10/3 âm lịch hàng năm làm ngày giỗ tổ Hùng Vương.

Theo truyền thuyết, nước ta có 18 đời vua Hùng. 


Tuy nhiên, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần, trong cuốn 'Thế thứ các triều vua Việt Nam', đã liệt kê đầy đủ tên của 18 vị vua Hùng:

1. Kinh Dương Vương

2. Hùng Hiền Vương, còn được gọi là Lạc Long Quân. Huý là Sùng Lãm

3. Hùng Lân Vương

4. Hùng Diệp Vương

5. Hùng Hi Vương

6. Hùng Huy Vương

7. Hùng Chiêu Vương

8. Hùng Vĩ Vương

9. Hùng Định Vương

10. Hùng Hi Vương (nhưng chữ "hi" trong tên gọi này và tên gọi ở trên khác nhau về tự dạng và ý nghĩa)

11. Hùng Trinh Vương

12. Hùng Vũ Vương

13. Hùng Việt Vương

14. Hùng Anh Vương

15. Hùng Triêu Vương

16. Hùng Tạo Vương

17. Hùng Nghị Vương

18. Hùng Duệ Vương

Tuy nhiên ngay sau danh sách này, nhà sử học Nguyễn Khắc Thuần cũng đưa ra nhận định thuộc một trong hai quan điểm đang được các nhà sử học tạm chấp nhận. Theo đó, 18 đời vua Hùng không có nghĩa là 18 người cụ thể mà là 18 chi, mỗi chi có một hoặc nhiều vị vua trị vì.

Theo Đại Việt Sử ký Toàn Thư, tình từ thời Kinh Dương Vương (2879 TCN) cho đến đời vua Hùng cuối cùng (258 TCN), nhà nước Văn Lang kéo dài 2.622 năm. Như vậy không thể chỉ có 18 vị vua Hùng được.

Thần Nông - Viêm Đế thủy tổ của người Việt

 Thần Nông thủy tổ của người Việt Tại Việt Nam thì Thần Nông được xem là thủy tổ của người Việt. Trong Đại Việt Sử ký Toàn thư, phần lời tựa của Ngô Sĩ Liên chép: “Nước Đại Việt ở phía nam Ngũ Lĩnh, thế là trời đã phân chia giới hạn Nam–Bắc. Thủy tổ của ta là dòng dõi họ Thần Nông, thế là trời sinh chân chúa, có thể cùng với Bắc triều mỗi bên làm đế một phương”. 

THẦN NÔNG - ÔNG TỔ CỦA NGƯỜI VIỆT VÀ NGƯỜI TRUNG QUỐC Shop tiền sưu tầm  D-money

Theo Đại Việt sử ký toàn thư: “Vua Đế Minh là cháu ba đời của Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Hoa), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỷ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ sinh ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, sinh một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.”

 (Nguồn: https://bienniensu.com/lich_su_trung_quoc/viem-de-than-nong-thi/)

------

Thần Nông, thường được gọi là Viêm Đế, ông ta họ Khương hiệu là: Thần Nông thị, Liên Sơn thị, trị vì 140 năm. Là một trong “Tam hoàng” nổi tiếng thời thượng cổ Trung Quốc. Ông ta dùng gỗ làm các công cụ trong nông nghiệp như: Cày, bừa – lãnh đạo nhân dân làm các việc trồng trọt, lại tìm ra các cây thuốc chữa bệnh cho người, được tôn khiêm là người sáng chế ra thuốc Bắc và nông nghiệp. Năm sinh, năm mất: không rõ, cách đây khoảng 5.000 năm Nơi an táng: Trà Lăng (nay là huyện Trà Lăng tỉnh Hồ Nam).

Lai lịch Viêm Đế Thần Nông Thị, theo truyền thuyết ông ta là thủ lĩnh nổi tiếng của bộ lạc Khương thời cổ đại. Một số bộ lạc này cư trú ở lưu vực Khương Thủy, Mễ Đới Sinh ở thị trấn Bắc Lệ Sơn. Thành phố Tùy Châu tỉnh Hồ Bắc ngày nay. Đầu tiên cư trú ở huyện Trần, về sau xuống dời hướng đông và định cư ở Khúc Phụ (nay là phía đông bắc huyện Khúc Phụ Tỉnh Sơn Đông). Truyền thuyết kể rằng, vào thời đại Thần Nông Thị số nhân khẩu tương đối nhiều. Con người nếu chỉ dựa vào săn bắt thú thì không đủ sống. Trời mới sáng tinh mơ thợ săn đã mang theo cung nỏ và gậy gộc đi bắt thú, tìm dã thú trên những cánh đồng cỏ mênh mông và trong những khu rừng rậm rạp. Họ phải chạy suốt ngày mà vẫn chẳng thu nạp được gì, chịu đói bụng, lê đôi chân mệt mỏi trở về. Thỉnh thoảng săn được một con lợn rừng, toàn bộ hơn một trăm nhân khẩu trong thị tộc xúm quanh lại phân phối, mỗi người chỉ được chia một phần thịt nhỏ, không đủ ấm bụng.Trẻ con đói quá, kêu khóc oa oa, phụ nữ và người già càng thêm tâm phiền ý loạn. Những tay săn thú vì bản thân không nuôi nổi thị tộc, đầu cứ cúi gục, mặt mày ủ rũ, ngồi thẫn thờ trên đất. Họ sống trong tình trạng cực kỳ buồn khổ. 

Ông đã phát hiện những hạt dưa và hoa quả do con người vứt xuống đất năm sau có thể mọc mầm, bén rễ, lớn lên thành dưa và cây quả mới. Ông còn phát hiện ra sự sinh trưởng của thực vật có quan hệ với thời tiết. Khi thời tiết ấm áp, cây cối nảy cành, sinh lá, khai hoa kết quả; khi thời tiết giá lạnh, cây cối khô héo. Ông quyết định lợi dụng sự thay đổi của thời tiết, nghĩ cách dùng sức người chăm bón cây cối, nhờ vậy mà đã có những thu hoạch hạt cây, trái quả một cách khả quan, đã có thêm thức ăn dự trữ, bổ sung bên cạnh săn bắt. Thần Nông nếm thử bách bảo Thoạt đầu, Thần Nông Thị chưa hiểu được loại quả, hạt hoặc rễ, cành lá của cây nào có thể ăn được, loại nào ăn ngon, loại nào không nên ăn hoặc ăn không ngon. Để mọi người được ăn no, không bị đói, để cho mọi người được sinh tồn, Thần Nông Thị quyết định dùng chính miệng của mình để thử mùi vị của các loại thực vật hoang dại. Ông đã thu thập các loại quả, hạt, rễ, lá, cành, ghé miệng thử từng loại. Mùi vị của thứ nào ngọt, đặc biệt ngon, ông đánh dấu lại. Mùi vị của thứ nào vừa đắng vừa chát, khó có thể nuốt được, ông cũng đánh dấu lại. Có một số thứ mùi vị không đến nỗi kém, nhưng sau khi nếm thử thì thấy nếu không váng đầu đau óc, cũng đau bụng nhức tim, thậm chí còn thượng thổ, hạ tả, miệng nôn, trôn tháo. Thì ra những thứ này có chứa chất độc, ông cũng đánh dấu tỉ mỉ kỹ càng. Truyền thuyết kể rằng trong quá trình Thần Thị Nông nếm thử bách thảo, lúc nhiều nhất trong một ngày đã từng gặp phảI bảy mươi loại thực vật có chất độc, trong đó mấy lần suýt mất mạng. Thế nhưng cuối cùng Thần Nông Thị vĩ đại đã khắc phục được muôn vàn khó khăn, đã chiến thắng được mọi loại nguy hiểm, tìm ra được một khối lượng lớn thức ăn cho loài người.

Ông đã tìm được những thực vật có thể làm ra lương thực, những loài cây có thể làm rau ăn, đã tìm được những trái cây ngon, còn tìm được cả những cây có thể chữa bệnh được. Thần Nông dạy dân trồng trọt, phát triển nông nghiệp Khi đã nhận biết được những loại cây này, con người bèn vạch ra kế hoạch trồng trọt, và như vậy vấn đề thức ăn đã được giải quyết thêm một bước, vấn đề thuốc chữa bệnh cũng đã bước đầu được khắc phục. Những người săn thú, bắt cá đã gặp vận may, từ đó trở đi sự nghiệp trồng trọt được mở ra, đời sống của con người đã có bảo đảm. Thần Nông Thị vẫn chưa thỏa mãn, ông phát hiện thấy sự sinh trưởng của thực vật chẳng những có quan hệ đến thời tiết mà còn có quan hệ tới đất đai. Có một số thực vật thích sinh trưởng ở vùng đất vàng, một số thực vật thức sinh trưởng nơi đất đen; một số thực vật ưa đất khô ráo, có một số thực vật hợp với đất ẩm. Tất cả các hiện tượng quan sát được ông đều ghi nhớ, rồi chỉ đạo mọi người theo đuổi việc trồng trọt sao cho ngày một tốt hơn. Thần Nông Thị lại phát hiện, việc trồng trọt cũng giống như việc săn bắt, đòi hỏi phải có một loại công cụ chuyên dùng. Tức thì ông mò mẫm nhiều lần rồi chế tạo ra các công cụ như cày, bừa, liềm, hái… dùng để trồng trọt và gặt hái. Tới đây, nền sản xuất nông nghiệp nguyên thủy được kể là một hệ thống phương pháp tương đối hoàn chỉnh. Con người đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chẳng những đời sống có đảm bảo; sản phẩm dư thừa, mà quan hệ mua bán cũng đã xuất hiện, chợ búa, mậu dịch sơ khai ra đời.

Mọi người đem những thức vật dư thừa của thị tộc đem ra chợ trao đổi với thị tộc khác lấy những thứ mà mình không có. Biện pháp là “họp chợ giữa ban ngày”, tới đúng giữa trưa, mặt trời ở giữa không trung, tất cả mọi người đều ra họp chợ, tiến hành trao đổi. Xung đột rồi liên kết với Hoàng đế Ông ta chia giới tuyến đường đi ở bản Tuyến (nay là phía đông nam huyện Trắc Lộc tỉnh Nam Hà) nảy sinh xung đột lớn với Hoàng đế. Đánh nhau bị thua trận, bắt tay hòa bình. Sau đó dẫn đầu trong việc mở rộng dân cư xuống hạ lưu sông Hoàng Hà Mễ Đới và Hoàng đế liên minh bộ lạc với nhau tạo thành một bộ phận chính yếu của bộ tộc Hoa Hạ. Bộ tộc Hoa Hạ về sau lại phát triển thành dân tộc Hán. Vì vậy con cháu của dân tộc Hán về sau này được gọi là “Con cháu của Mễ Đới”. 

Sau khi Thần Nông chết, con cháu của ông ta truyền đến 8 đời nữa mới bị tuyệt tự. Tổng cộng kéo dài 560 năm 

Theo Đế vương thế kỷ và Sử Ký – Bổ Tam Hoàng bản kỷ thì Thần Nông thị có chín người lần lượt làm vua: 

  1. Viêm Đế 
  2. đế Lâm Khôi (帝临魁) tức đế Đồi (con Viêm đế) 
  3. đế Thừa (帝承) con đế Lâm Khôi 
  4. đế Minh (帝明) con đế Thừa 
  5. đế Trực (帝直) con đế Minh 
  6. đế Ly (帝釐) tức đế Nghi (con đế Trực – sách Thông giám ngoại kỷ nói là con đế Minh mà không có đời đế Trực) 
  7. đế Ai (帝哀) tức đế Lai (con đế Ly) 
  8. đế Khắc (帝克) con đế Ai 
  9. đế Du Võng (帝榆罔) con đế Khắc


 (Nguồn: https://bienniensu.com/lich_su_trung_quoc/viem-de-than-nong-thi/)

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2020

Động Đình Hồ và Bách Việt


Nguyễn Xuân Quang

Hồ Động Đình được nhắc tới nhiều trong truyền thuyết, cổ sử và văn hóa của Đại Tộc Việt.

HỔ ĐỘNG ĐÌNH và TRUYỂN THUYẾT VIỆT.

Kì Dương Vương Lấy Công Chúa Của Long Vương Động Đình Quân.

    Theo Lĩnh Nam chích quái thì Kì Dương Vương ”có nhiều phép lạ, có thể đi lại trên trời và dưới nước được”, cũng vì “có tài đi dưới thủy phủ” nên Kì Dương Vương xuống cõi nước lấy Thần Long con gái Long Vương Động Đình Quân ở hồ Động Đình.

    Truyền thuyết khác cho biết Kì Dương Vương là vua đầu tiên của nước Xích Quỉ của Đại Tộc Việt.

    Trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt và trong nhiều bài viết khác, ta đã biết Kì Dương Vương là người đầu tiên của thế gian và cũng là vua đầu tiên của nước Xích Quỉ, Người Mặt Trời, có nhũ danh là Lộc Tục (con Hươu Đục, Hươu Nọc) có cốt là con hươu sủa mang gạc (barking deer, munjac) và kì dương là Mã Lai ngữ kijang, hươu sủa. Kì Dương Vương vua thế gian nên có một khuôn mặt là Núi Thế Gian, Núi Trụ Trời, NúiTrụ Chống Trời trong có Trục Thế Giới thông thương ba cõi. Ta thấy các nhân vật và các địa danh Việt như ông Trụ Chống Trời, Bàn Cổ, núi Thạch Môn, núi Không Lộ, Núi Kình Thiên Trụ ở Sơn Tây, núi Nam Giới (núi hình cây Cọc của phái nam) ở Hà Tĩnh… cũng như những tháp, đống, tháp có tầng, thạch trụ, đại thạch bi, cột, trụ, nọc, núi nổng, cây Chiên đàn, cây Si, cây “Chu đồng bông thau lá thiếc” của Mường Việt cổ, Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) mang hình ảnh và ý nghĩa liên hệ với Kì Dương Vương. Núi Kì trong cổ sử là một thứ Núi Trụ Thế Gian liên hệ với Kì Dương Vương. Núi Trụ Chống Trời, Trục Vũ Trụ, Trục Thế Giới tại trung tâm quả đất đầu trên đụng tới nóc trời ở thiên đỉnh (zenith), đầu dưới xuống tận rốn cõi nước, cõi âm (nadir). Đây là trục “xa lộ” nối liền ba cõi tam thế.

    Kì Dương Vương ở cõi thế gian đội lốt thần mặt trời Viêm Đế ở cõi tạo hóa, đội lốt Đế Minh ở cõi trời thế gian là vua mặt trời thiên đỉnh, chính ngọ trên đỉnh Trục Thế Giới. Vì thế Kì Dương Vương có thể đi lại, cai quản cả ba cõi qua Trục Thế Giới. Điểm này giải thích câu nói trong truyền thuyết là Kì Dương Vương ”có nhiều phép lạ, có thể đi lại trên trời và dưới nước được”.

    Như thế Kì Dương Vương dĩ nhiên có thể đi xuống cõi nước, xuống thủy cung của Long Vương Động Đình Quân để cưới Thần Long.

    Tại sao Kì Dương Vương lại chọn Long nữ Thần Long làm vợ? Xin thưa Kì Dương Vương có Kì là kẻ, là cây, là Nọc, Dương có nghĩa ngược với âm và có một nghĩa là Nọc mặt trời. Kì Dương là nọc lửa, vật nhọn như rìu, dương, mặt trời thiên đỉnh, chim nọc, hươu nọc, rắn nọc (lửa), bộ phận sinh dục nam… thuộc ngành Nọc, mặt trời Viêm Đế, Đế Minh. Trong khi Thần Long con của Long Vương ở thủy cung có Thần là Nước, Long là rồng thuộc ngành Nòng âm, nước, rắn nước, không gian Thần Nông, Lạc Long Quân. Đây là sự hôn phối lưỡng hợp nòng nọc, âm dương, giữa Kì Dương Vương Li, Lửa đất với Thần Long, Nước Trời Khảm. Sự hôn phối này hợp với luật giao hòa nòng nọc, âm dương của vũ trụ, càn khôn của Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo, của Dịch. Ta thấy rất rõ cốt lõi của văn hóa Việt là Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương.

Sự hôn phối này xẩy ra ở hồ Động Đình.

Tại Sao Lại Là Hồ Động Đình?

Hồ Động Đình Thuộc Về Bách Việt.


    Trước hết, dĩ nhiên hồ Động Đình phải là của Đại Tộc Việt nên mới có thể chọn làm nơi nguồn cội của Bách Việt. Nhiều chứng tích cho thấy hồ Động Đình là của Bách Việt. Xin chỉ nêu ra một vài điểm chính:

Biên cương Văn Lang.

Theo Lĩnh Nam chích quái thì:
Biên cương nước Văn Lang.
Phía Bắc tới hồ Động Đình,
Tới tận dòng Trường Giang,
Phia Tây giáp Tứ Xuyên Ba Thục,
Phía Đông giáp Nam Hải,
Phía Nam xuống mãi Hồ Tôn Chiêm Thành.

(thơ Nguyễn Xuân Quang, xem Hồ Động Đình phần 2).

Hồ Động Đình thuộc Sở Việt.


    Trong bài thơ ở đình Ông Tiên Say Ba Lần có câu cho thấy tiên ông Lã Đồng Tân đã “sáng du Bắc Việt chiều Thương Ngô”, (朝游北越暮蒼梧, Triêu Du Bắc Việt Mộ Thương Ngô). Thương Ngô-蒼梧 là một tên gọi khác của nước Sở, đó là “địa danh” ở phía Nam của Bắc Việt và câu Lãng Ngâm phi quá Động Đình Hồ. / Lãng Ngâm bay qua Động Đình Hồ.

Đây là một chứng tích của cổ sử Đại Tộc Việt cho thấy rõ ràng “Sở” là “Việt.

    Khuất Nguyên người nước Sở đã trầm mình ở sông Mịch La (Miluo), gần Nhạc Dương bên hồ Động Đình và được dân địa phương thờ phượng hàng năm vào ngày 5 tháng 5 âm lịch, tết Đoan Ngọ (xem dưới). dân vùng hồ Động Đình có những tộc thuộc Sở Việt nói riêng và Bách Việt nói chung.

Hồ Động Đình liên hệ với Lạc Việt.

    Tỉnh Hồ Nam là châu thổ sông Tương chẩy vào hồ Động Đình nên Hồ Nam có khi gọi tắt là Tương theo tên con sông nổi tiếng này.

    Tương Giang bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của khu tự trị của tộc Tráng (Zhuang), ở Quảng Tây. Tộc Tráng là một chi tộc Lạc Việt (Loyue). Như thế dòng văn hóa Lạc Việt bắt buộc phải xuôi nguồn chẩy vào hồ Động Đình. Nói một cách khác sông Tương đầu nguồn ngày nay còn có Lạc Việt Tráng tồn tại thì tất nhiên vùng hồ Động Đình ngày xưa bắt buộc phải là phần đất có Lạc Việt. Ta thấy rõ điểm này qua sự kiện truyền thuyết Việt nói rằng Lạc Long Quân và Âu Cơ chia tay nhau ở cánh đồng Tương….

Hồ Động Đình và các tộc khác của Bách Việt


    Theo Thái Văn Kiểm “Động Đình Hồ, nơi qui tụ rất đông người Bộc Việt và Lão Việt” (xem dưới).

    Triệu Đà đất Nam Việt vì sợ nhà Hán đánh chiếm mình nên đã tiến đánh chiếm trước một phần đất tỉnh Hồ Nam, dưới hồ Động Đình.

    Cổ sử cũng ghi lại rằng một phần đất của Hồ Nam thời nhà Tần thuộc về Tượng Quận.

Hồ Động Đình và Đại Hàn


    Khi nghe chúng tôi nói Long Vương Động Đình Quân là ông ngoại của Lạc Long Quân Lạc Việt, người hướng dẫn viên rất ngạc nhiên. Chị cho biết một số du khách Đại Hàn đến đây cũng bảo là Long Vương liên hệ với vua tổ của họ. Đúng vậy, Việt Nam và một vài tộc Đại Hàn có một tổ chung. Trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt tôi đã chứng minh rõ điểm này. Xin tóm lược vài điểm chính ở đây. “Đời Tây Chu các sử gia nhà Chu gọi người Korea là Lai Di. Sử ấy cũng cho biết Lai Di là rợ Tam Hàn trước kia” (Bình Nguyên Lộc, sđd). Ở chỗ khác Bình Nguyên Lộc viết “Sử đời Chu cho biết rợ Tam Hàn vốn là dân Lạc viết với bộ trãi, tức là dân Đông Di, gốc ở cực đông bắc Trung Hoa thời thượng cổ”. Ta thấy dân Đại Hàn có chi Lạc viết với bộ trãi y hệt chữ Lạc trong tên Lạc Long Quân cũng viết với bộ trãi. Trãi là con sâu không có chân tức thuộc dòng rắn. Theo tr=d (tràn = dàn) ta có trãi = dải, con vật giống như dải dây là con rắn. Cổ sử Đại Hàn và cổ sử của chúng ta cũng gặp nhau ở cái bọc Trứng Thế Gian. Các tộc phía nam của Tam Hàn cũng có huyền thoại cho rằng vua tổ của họ do trứng nở ra y hệt truyện Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng nở ra các vua tổ Hùng vương. Cổ sử Đại Hàn có nói tới vị vua huyền sử đầu tiên là Tankun hay Thankun đẻ ra vị vua đầu tiên là Ki-ja, vị tổ lập quốc của triều đại thứ nhất. Không có tài liệu nào nói rõ về thời vua huyền sử (legendary king) Tankun hoặc ngay cả giai đoạn Kija sau đó. Korea chỉ còn các tài liệu về ngôn ngữ trong và sau thời đại Samhan (Three Han States, Tam Hàn). Ta thấy -kun liên hệ với Mường ngữ cun. kun, khun, cổ ngữ Việt khuấn và với Mông Cổ ngữ khan (Gengis Khan), Anh ngữ king… có nghĩa là người cầm đầu, người số một, vua. Tankun, Thankun là vua Tan, vua Than. Theo chuyển hóa t=s, th=s (thẹo = sẹo), ta có Tan, Than = San, Sáng. Vị vua tổ huyền sử của Đại Hàn là Tankun, Thankun là Cun Sáng, vua Sáng tương đương với Đế Minh. Ta có thể thấy rõ điều này qua cái tên Triều Tiên có nghĩa là ánh Chiêu Dương đầu tiên của ngày, tức ánh bình minh. Ngày nay người Đại Hàn dịch chữ Triều Tiên ra Anh ngữ là “Morning Calm” cho thấy còn mang dấu tích vua tổ của họ là vua Sáng Tankun liên hệ với Vua Ánh Sáng Đế Minh. Bình Nguyên Lộc cũng đã nhận ra sự liên hệ này: ”Nhưng người Tầu đã sai lầm mà phân biệt Đông Di và Nam Man vì cứ theo lời họ tả thì Đông Di giống hệt Nam Man cũng xâm mình và nhuộm răng đen và ta sẽ thấy… rằng rợ Đông Di, đích thị là Việt” (Bình Nguyên Lộc, sđd, tr.136).

    Đại Hàn có một gốc chung với Việt Nam chúng ta. Tên nước Triều Tiên, ánh Chiêu dương gần cận với Hừng rạng. Họ cũng có Kinh Dương vương. Tankun tương đương với Đế Minh sinh ra vị vua đầu tiên là Ki-ja, vị tổ lập quốc của triều đại thứ nhất. Ki-ja chính là Ki-jang, Kì Dương! Kinh Dương vương, vua đầu tiên của Việt Nam và Ki-ja là vua đầu tiên của Đại Hàn. Như thế Tam Hàn Lạc bộ trãi và Lạc Việt Lạc Long Quân có Lạc bộ trãi có cùng vua Ánh Sáng Tankun-Đế Minh, cùng vua Ki-Ja, Kì Dương, có cùng bọc Trứng Thế Gian sinh ra các vua tổ Đại Hàn-Hùng Vương thì cùng có gốc tổ ở hồ Động Đình là chuyện tất nhiên. Đại Hàn có các tộc có gốc Bách Việt.

    Điểm này là điểm hết sức quan trọng vì nó chứng thực, xác quyết là nguồn cội của Bách Việt là ở hồ Động Đình không phải chỉ có trong truyền thuyết Việt mà còn thấy ở Đại Hàn.

……

Hồ Động Đình Là Đất Thần Kỳ, Kỳ Bí, Thần Tiên


    Hồ Động Đình được chọn làm nơi cội nguồn của Bách Việt vì hồ Động Đình là đất thần kỳ, kỳ bí, thần tiên mang hình ảnh cõi tạo sinh, tạo hóa như đã thấy qua bài viết tổng quát về hồ Động Đình.

    Về địa hình hồ Động Đình mênh mông như biển Vũ Trụ và núi Động Đình như Núi Trụ Chống Trời chạm tới chín từng mây. Hồ và núi mang hình ảnh Cây Tam Thế (Cây Vũ Trụ, Cây Đời Sống) trong có Trục Thế Giới. Núi Động Đình (Quân Sơn) là núi Trụ Trời thế gian Trung Thế trong có hang động có thể thông thương với cõi trên Thượng Thế và Cõi âm Hạ Thế. Thượng Thế là cõi trên, cõi trời, cõi thần tiên. Như đã biết hồ Động Đình được coi là có tiên xuất hiện như đã biết thi tửu tiên Lã Đồng Tân đã say sưa ba lần ở lầu Nhạc Dương bên hồ Động Đình. Trung Thế là cõi nhân gian. Hồ Động Đình là nơi cư ngụ của các tiên nhân, nơi ẩn dật của các Đạo sĩ, các thi nhân, vương giả, vua chúa… Hạ Thế là cõi nước, cõi âm có thủy phủ của Long Vương Động Đình Quân. Như thế hồ Động Đình có đủ cả Tam Thế.

    Nếu nhìn dười lăng kính Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo dựa trên nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương thì hồ nước là nòng, âm, cái bọc âm, (Vũ trong vũ trụ) ứng với không gian và núi đảo Quân Sơn Trụ Trời là Nọc, dương, nọc chấm hay nọc que (Trụ trong vũ trụ) ứng với mặt trời. Hồ Động Đình và núi quân Sơn là hình ảnh của nòng nọc, âm dương, vũ trụ, không gian-mặt trời, Trứng Vũ Trụ, Thái Cực hay Lưỡng Nghi. Đây chính là nơi sinh tạo, tạo hóa ra vũ trụ trời đất muôn sinh, loài người. Và đây chính là nơi xẩy ra sự giao hòa nòng nọc, âm dương Thần Long-Kì Dương Vương của chúng ta.

    Con người đầu tiên ở cõi giữa thế gian là Kì Dương Vương. Lộc Tục Kì Dương Vương chính là con hươu Keh và cũng là con người đầu tiên của loài người của James Churchwards (Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt).


Hươu Keh, con người thế gian đầu tiên (James Churchwards).

    Lưu ý con Hươu Keh chính là con hươu Kẻ, hươu Kì, hươu cọc, Lộc Tục (Hươu Đục, Hươu Đọc, Hươu Nọc) Kì Dương Vương là con người đầu tiên trên đất thế gian (vì thế mới vẽ đứng trên hai chân trên mặt đất). Chữ T trong hình là hình ảnh Trụ Chống Trời, Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống) nhô lên từ biển nước vũ trụ. Ta thấy rõ Trụ Chống Trời T và biển nước tương đương với núi Quân Sơn và hồ Động Đình. Hươu Kì Lộc Tục tương ứng với Hươu Kẻ là thần tổ loài người sinh ra từ Trứng Vũ Trụ là hồ Động Đình và núi Quân Sơn. Do đó Kì Dương Vương có thể dùng Trục Thế Giới chữ T này xuống thủy phủ lấy Long Nữ. Như thế rõ như “con cua tám cẳng hai càng, một mai hai mắt rõ ràng con cua” là Hươu Nọc Lộc Tục Kì Dương Vương (tương với hươu Keh) liên hệ với Núi Trụ thế gian, Trụ Chống Trời, Trục Thế Giới, Cây Vũ Trụ (Cây Tam Thế, Cây Đời Sống).

    Do đó Kì Dương Vương có mặt ở hồ Động Đình và xuống thủy cung lấy Thần Long quá đúng.

Nếu còn nghi ngờ ta có thể kiểm chứng lại với các tộc khác của thế giới.

    Ta thấy không phải chỉ Đại Tộc Việt có truyền thuyết sáng thế, tạo sinh từ hồ nước và gò núi trong hồ mang hình ảnh Trứng Vũ Trụ, Thái Cực, Trục Thế Giới mà còn có những tộc khác (ngoài các tộc Đông Á cổ thấy qua hình trên của James Churchwards) như Ai Cập cổ như Inca. Thật vậy, tôi đã khám phá ra cốt lõi văn hóa Ai Cập cổ và Inca (cùng có đạo thờ mặt trời như chúng ta) là Vũ Trụ giáo dựa trên Vũ Trụ Tạo Sinh, có căn bản là nguyên lý lưỡng hợp nòng nọc, âm dương giống như truyền thuyết và cổ sử Việt. Như thế, sự tương đồng giữa văn hóa cổ Việt với cổ Ai Cập và Inca là một chuyện hiển nhiên, không có gì là nghịch lý cả.

    Theo truyền thuyết sáng thế của Ai Cập cổ thì khởi thủy là Biển Vũ Trụ Nun (Ai Cập cổ thuộc ngành nòng âm nên hư vô cực hóa trước tiên biến thành Biển Vũ Trụ). Thượng đế hay hóa công nhô lên từ Biển Vũ Trụ cùng lúc với gò núi nổi lên gọi là “đồi nguyên khởi” (primeval hill’) hay “gò nguyên khởi” (‘primeval mound’). Ta thấy rõ đây là hình ảnh của hồ Động Đình và đảo Quân Sơn.

    Một truyền thuyết sáng thế của Inca cũng kể rằng hai vị thần tổ Manco Capac và Mama 0cllo trồi lên từ hồ Titicaca trên đảo Mặt Trời

    (Isla del Sol) để tạo dựng lên Đế Quốc Inca. Ta thấy rất rõ hồ Titicca là Biển Không Gian và đảo Mặt Trời mang hình ảnh Trứng Vũ Trụ, Thái Cực giống như hồ Động Đình.

    Như thế về siêu hình học, hồ Động Đình là đất kỳ bí, huyền bí, thần tiên, đất của siêu phàm, thích hợp với huyền sử, huyền thoại nên truyền thuyết về nguồn cội của Đại Tộc Việt ở đây thật quá tuyệt vời và rất hợp lý.

Truyền Thuyết Được Hiện Thực Hóa Bằng Các Đền Đài 

Điều cần đáng nói nhất là truyền thuyết về nguồn cội của Đại Tộc Việt không phải chỉ là truyền thuyết xuông nhưng nó đã được hiện thực hóa bằng những cấu trúc thờ phượng cụ thể ở hồ Động Đình.


1. Đền Động Đình


Đền Động Đình (ảnh của tác giả).


    Tại đảo Quân Sơn trong hồ Động Đình có một ngôi đền gọi Đền Động Đình. Đền thờ vị Thần ở hồ Động Đình. Đền bị phá hủy vào thời chiến tranh Nhật-Hoa và được xây cất lại vào năm 1997.

    Đền thờ một vị thần mặt sắt đen xì (tiếc rằng bị cấm chụp ảnh trong đền nên không có ảnh vị thần mặt đen này. Hồ Động Đình chưa phải là điểm du lịch nóng bỏng, các du khách ngoại quốc ít người tới đây. Chỉ có chúng tôi là hai người ngoại quốc tới thăm hồ Động Đình hôm nay. Vì thế nên chưa có bưu ảnh và sách vở bằng Anh ngữ viết về hồ Động Đình).

    Khi chúng tôi hỏi, người hướng dẫn viên cho biết đền có thờ Long Vương. Nhưng theo truyện dân gian ở đây thì đền này ngày nay cho là thờ một nho sĩ tên là Liễu Nghị (Liuyi), đời nhà Đường trở thành vị Thần hồ Động Đình. Đây là vị thần bảo mệnh của dân chài sống ở vùng hồ Động Đình.

    Truyện thần hồ Động Đình chính là câu chuyện dân gian của Li Zhaowei viết từ một truyền thuyết của hồ Động Đình và đã được phổ biến rộng dãi trong dân gian, trở thành một trong sáu câu chuyện dân gian nổi tiếng của Trung Hoa (như truyện Ngưu Lang Chức Nữ, Chuyện Nàng Meng khóc làm sụp lở Vạn Lý Trường Thành, chuyện Nguyệt Lão Xe Tơ…).

    Theo truyện dân gian này thì Liễu Nghị, một sĩ tử trên đường đi thi từ kinh đô về gặp một người con gái đang chăn cừu rất xinh đẹp nhưng trông rất khổ sở. Hỏi ra mới biết nàng là con gái Long Vương ở hồ Động Đình. Nàng được gả cho một vị hà bá nhưng bị chồng ngược đãi bắt phải đi chăn cừu. Nàng nhờ chàng đem thư về cho Long Vương báo cho Long Vương biết. Liễu Nghị ưng thuận giúp. Nàng trao cho chàng một dải dây đeo lưng bảo chàng tìm đến một cây Cam cổ thụ ở đảo Quân Sơn, đeo dây vào người rồi gõ vào cây cam thì sẽ có người dẫn chàng xuống gặp Long Vương ở dưới thủy phủ. Liễu Nghị làm đúng theo lời dặn. Bỗng dưng cái giếng nước bên gốc cây cam mở ra thành một đường dẫn xuống lòng nước. Một người hiện lên đưa chàng xuống thủy phủ. Sau này cái giếng vốn gọi là Giếng Cây Cam được gọi là Giếng Liễu Nghị, tức là đường xuống thủy cung (xem hình ở bài Hồ Động Đình 1). Long Vương sai em mình đi giải cứu con gái. Em Long Vương sau đó đề nghị gả cháu gái mình cho Liễu Nghị nhưng chàng từ chối cho rằng chàng giúp người vì thấy việc đó cần phải làm mà thôi. Liễu Nghị trở lại sống đời người trên mặt đất. Chàng lấy vợ hai lần nhưng hai người vợ đầu chết sớm. Liễu Nghị buồn bỏ đi xa. Ở đây, qua mối mai chàng gặp một góa phụ, chàng yêu ngay và lấy bà làm vợ. Một năm sau, vợ sinh được một đứa con trai. Nhân ngày lễ thôi nôi, vợ chàng hiện ra là công chúa con Long Vương ở hồ Động Đình. Sau đó, hai người trở lại sống ở hồ Động Đình và Liễu Nghị trở thành vị vua cai trị hồ Động Đình.

Tuy nhiên, Liễu Nghị vốn là một bạch diện thư sinh, nho nhã nên không đủ oai quyền để cai trị nổi các loài thủy quái ở hồ. Long Vương làm một cái mặt nạ đen xì cho Liễu Nghị đeo vào mỗi khi đi làm phận sự. Tối về nhà phải bỏ mặt nạ ra cho vợ con nhận ra mình. Một hôm đi kinh lý về khuya, Liễu Nghị mệt quá quên bỏ mặt nạ ra, ngủ thiếp đi. Sáng trở dậy chiếc mặt nạ dính sát vào da mặt không lột ra được nữa nên trở thành một vị vua thế gian mặt đen. Vua hồ Động Đình mặt đen này phù trợ giúp đỡ dân chài quanh hồ rất nhiều vì thế mà sau này được dân vùng này lập đền thờ.

    Đó là chuyện dân gian ngày nay lưu truyền tại vùng hồ Động Đình, phần đất cũ của Đại Tộc Việt. Truyện này còn nhiều dấu tích của Long Vương trong truyền thuyết Việt.

Thực sự ra ngôi đền hiện này mang hình ảnh chính là ngôi đền thờ Long Vương.

    Thật vậy, khi nhìn thấy mặt tiền của đền là ta có ấn tượng ngay đây là một ngôi đền thờ liên hệ với Long Vương Động Đình Quân, vị vua Rồng sống dưới đáy hồ.

    Cổng tam quan có 9 con rồng (cửu long). Rõ ràng đây là đền thờ Vua Rồng. Vua rồng thật ra theo Vũ Trụ giáo có ba khuôn mặt ở cả Tam Thế. Nhưng khuôn mặt chính là ở cõi nước, cõi âm, Hạ Thế. Ở cõi thế gian lúc đầu chính mình chăm lo cai quản sông ngòi hồ biển, vùng đất âm có nước nhưng khi về già thường cho con (hay con rể) thay mình. Ở cõi trời lo việc mây, mưa, sấm chớp… Lạc Long Quân của chúng ta là cháu ngoại của Long Vương hồ Động Đình Quân nên có tất cả những khuôn mặt này. Long Vương Động Đình Quân đã nhờ con rể Liễu Nghị cai trị thế gian khi về già.

    Số 9 là số Chấn thế gian có mang một nghĩa nước-lửa, sấm mưa, mặt trời nước, nước dương chuyển động (biển, sông…), bản thể của Lạc Long Quân. Lưu ý mái cổng tam quan hình gợn sóng, mái cổng chính hình vòm (vòm vũ trụ, không gian, vòm trời), cột tròn, đầu cột có hình cầu tròn (nòng) mang âm tính thuộc ngành nòng, âm, nước, không gian, Thần Nông đối ngược với mái, các trụ và đầu trụ có góc cạnh, nhọn mang dương tính nọc, dương, lửa, mặt trời, Viêm Đế.

    Tượng vị thần mặt đen được cho là vua hồ Động Đình đất thế gian Liễu Nghị thật ra là đội lốt Long Vương Động Đình Quân. Long Vương làm ra chiếc mặt nạ đen xì cho Liễu Nghị đeo. Chiếc mặt nạ đen này chính là một khuôn mặt mình, khuôn mặt của vị vua Rồng ở cõi âm. Khuôn mặt đen này của Long Vương đã được các loài thủy quái kiêng nể, kính sợ. Mầu đen là mầu nước, mầu ngành nòng âm, mầu thái âm, mầu cõi âm (để tang mầu đen), mầu của khuôn mặt cõi âm của Long Vương. Điều này còn thấy rõ trong văn hóa Lạc Việt. Người Lạc Việt thuộc dòng nước, Lạc Long Quân có tục nhuộm răng đen, đội khăn vuông mỏ quạ mầu đen, một chi tộc Lạc Việt Tráng (Zhuang) mặc đồ mầu đen ở quận Napo gọi là Tráng đen Nung/Dam… Các vị thần, vua, lãnh tụ của ngành nòng âm, nước, mặt trời nước, mặt trời hoàng hôn, không gian âm, cõi âm được gọi là Quân có nghĩa liên hệ với mầu đen như Thái Thượng Lão Quân, Động Đình Quân, Lạc Long Quân, Quân Sơn… Ví dụ như vua các nước Tây Âu (dòng Nòng, Nước, không gian âm) gọi là quân chứ không gọi là vương như “Tây Âu Quân là vua nước Tây Âu” (Bình Nguyên Lộc, tr.234). Vua Lạc Long gọi là Lạc Long Quân chứ không gọi là Lạc Long Vương. Ta thấy rõ Lạc Long Quân mang di thể (gene) Quân từ ông ngoại Long Vương Động Đình Quân. Trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt tôi đã giải thích Quân liên hệ với nước, mầu đen, mầu tím đen, hoàng hôn. Xin tóm tắt lại vài điểm chính ở đây.

    Quân cùng vần với quan. Quan biến âm với Oan. Ta có thể kiểm chứng lại qua qui luật q=0 (q câm) như queo = ueo = oeo = eo (cong): quan = uan, oan. Oan hàm nghĩa nước, oan ương là le le vịt nước. Anh ngữ swan (thiên nga) có -wan = uan = oan, cùng giống với oan ương. Điều này cũng thấy rõ nơi nguồn gốc của người Sumerian ở Lưỡng Hà. Theo truyền thuyết của người Sumer thì tổ tiên của họ là Nhân ngư Oannes, nửa cá nửa người. Oannes có Oan-. Nhân ngư Oannes Sumerian chính là ‘người ở nước’, Giao nhân, long nhân của chúng ta. Như thế Quân có nghĩa là vua, tổ, thủ lãnh dòng nước, mặt trời lặn, cõi âm. Quân biến âm với cổ ngữ Việt ‘khuấn’ chỉ ông tổ. Theo q=kh như quấy = khuấy, ta có quân = khuấn. “Họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung còn cho biết, ngày trước ở Sơn Tây, trẻ con chửi nhau có câu ‘tiên sư ông Khuấn nhà mày’. Khuấn coi như ông tổ, người cầm đầu một gia tộc, như ‘khuntz’ của người ‘Mun-da’” (Trần Quốc Vượng). Sơn Tây là đất tổ của Lạc Long Quân. Khuấn là thần tổ Lạc Long Quân. Khuấn biến âm với Muờng ngữ Cun, lãnh tụ, tộc trưởng như “Cun lang bú chó, Cun vó bú trâu” [Cun tộc lang sói bú chó, cun tộc có vó (chân có móng như vó ngựa) thì bú trâu].

    Về màu sắc thì theo h=q như hóa phụ = quả phụ ta có quân = huân, hôn. Quân là màu huân, màu hôn, màu hoàng hôn. Hoàng hôn là màu đỏ mặt trời pha với màu đêm đen, tức màu đỏ-đen, màu tím đỏ, màu chiều tím. Hán ngữ huân là ‘khói lửa bốc lên’ như thế huân là màu lửa pha màu khói đen. Rõ hơn nữa ta thấy màu ‘quân’ trong tên quả hồng quân hay mồng quân (Flacourtia cataphracta, Roxb.) Huỳnh Tịnh Paulus Của, trong Đại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: “mồng quân, thứ cây có nhiều gai, có trái tròn mà nhỏ, người ta hay ăn, trái nó chín đỏ đen như màu huân cho nên cũng kêu là hồng huân…”, ở nơi từ huân ghi: ”huyền huân, màu đen tím”.

    Vậy quân là màu tím đỏ màu mặt trời đêm, mặt trời hoàng hôn. Lạc Long được gọi là quân vì là vua Mặt Trời màu ‘quân’, màu tím đỏ, có một khuôn mặt của Mặt trời lặn…

    Như thế hiển nhiên tượng thần mặt đen trong đền chính là hình bóng của Long Vương. Đây là đền thờ Long Vương. Một bằng chứng cho thấy rõ và rất thuyết phục là không phải chỉ có một tượng vị thần mặt đen liên hệ với Long Vương mà thôi, các chi tiết khác của đền đều liên hệ với Long Vương. Các cờ phướn ở đây cũng đều viền mầu đen, viết chữ đen, mầu âm của Long Vương, không có mầu đỏ là mầu dương.


Cờ phướn ở đền Động Đình đều viền mầu đen, viết chữ đen mầu âm của Long Vương, không có mầu đỏ là mầu dương (ảnh của tác giả).

Đỉnh hương có hình mặt trời nước, mặt trời hoàng hôn, mặt trời lặn hay mặt trăng (một thứ mặt trời đêm) hình đĩa tròn không có tia sáng.



    Đỉnh hương có hình mặt trời nước, mặt trời hoàng hôn, mặt trời lặn hay mặt trăng (một thứ mặt trời đêm) hình đĩa tròn không có tia sáng (ảnh của tác giả).

    Sau đỉnh hương có hình lưỡng long chầu nguyệt hiển nhiên liên hệ với Long Vương. Và như đã nói tiêu biểu nhất là cổng tam quan hình sóng nước với chín con rồng.

    Như thế trăm phần trăm đền mang sắc thái thờ Long Vương. Vị thần mặt đen nếu cho đó là vị vua đất thế gian của hồ Động Đình Liễu Nghị thì vị này cũng chỉ là ông con rể đội lốt cha vợ Long Vương mà thôi.

    Đây là một chứng tích cho thấy văn hóa Đại Tộc Việt đã bị Hán hóa, tác giả viết truyện nhân gian về hồ Động Đình đã tiểu thuyết hóa.

2. Truyền Thuyết Vua Thuấn và Hai Bà Vương Phi


    Như đã biết ở Quân Sơn có Đền Tưởng Niệm Tương Phi ngày xưa gọi là Đền Tương Sơn. Đền được xây cất đầu tiên vào thời Chiến Quốc để thờ vị thần ở Quân Sơn và sông Tương. Theo truyền thuyết kể lại thì vua Thuấn (Shun,舜) đi tuần thú đất Thương Ngô và bị bệnh chết ở đây, rồi hai nàng ái phi là Nga Hoàng- 娥皇và Nữ Anh-女英 đi tìm và cũng chết nơi đây và được chôn cất nơi này. Sau nầy Khuất Nguyên- 屈原 làm thơ gọi là Tương Quân (Xiangjun 湘君) và Tương Phu Nhân- (Xiang Furen, 湘夫人). Tương Quân lại được cho là “thần sông” của Sông Tương. Vì vậy nên từ đời nhà Đường đền được đổi tên là Đền Tưởng Niệm Tương Phi. Tại Quân Sơn cũng có mộ Hai Bà Vương Phi và vườn tre đốm hình giọt nước mắt do hai bà khóc Vua Thuấn nước mắt nhỏ xuống thân tre biến thành những đốm giọt nước mắt. Tre đốm này gọi là Tương Phi trúc hay Tương trúc (xem Hồ Động Đình 1). Vì thế giọt nước mắt vì tình cũng được gọi là “giọt Tương” hay “mạch Tương” như thấy trong Kiều của Nguyễn Du:.


Giọt châu lã chã khôn cầm,
Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương!

(Thúc Sinh khóc).

Hay

Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương.

(Kiều khóc).

    Đế Thuấn là một vị trong truyền thuyết Trung Hoa nằm trong Ngũ Đế. Câu hỏi được đặt ra là tại sao Đế Thuấn lại chọn hồ Động Đình làm nơi an nghỉ nghìn thu? Như thế ông phải thuộc về ngành nòng âm Thần Nông liên hệ với ngành Long Vương. Theo Khuất Nguyên thì Đế Thuấn tương đương với thần sông Tương. Hai bà vương phi cũng chết ở vùng sông Tương và được coi là thần nữ của đảo Quân Sơn. Ta cũng thấy Đế Thuấn nghiêng về ngành nòng, âm, nước khi ông dùng Hạ Vũ trị thủy, sau đó lại truyền ngôi cho Hạ Vũ chứ không truyên ngôi cho con là Thương Quân. Rõ ràng con của Đế Thuấn có di thể Quân của dòng âm nước Thần Nông như Lạc Long Quân. Một điểm nữa, Đế Thuấn lấy một lúc hai người con gái của Đế Nghiêu. Điểm này làm ta liên tưởng tới hai ngành nòng nọc, âm dương. Mỗi bà sinh ra một dòng con ứng với lưỡng hợp nòng nọc, âm dương như hai ngành Viêm Đế và Thần Nông của Viêm Đế-Thần Nông nhất thể, của các Lang Hùng, Hùng Vương. Như thế Đế Thuấn thuộc ngành nòng Thần Nông. Điều này giải thích tại sao ông là người hiền hòa rất đạo đức và đời Nghiêu Thuấn được cho là thời thái bình thịnh tri. Hiểu như thế ta sẽ hiểu tại sao ông trở về quê quán là hồ Động Đình để qui tiên. Nhìn xa thêm nữa, Đế Thuấn liên hệ với hồ Động Đình tức liên hệ với với Đại Tộc Việt. Trước đây tôi có đọc ở đâu đó có tác giả cho rằng các vị vua trong truyền thuyết cổ Trung Hoa có liên hệ với Đại Tộc Việt hay vay mượn từ Đại Tộc Việt. Trong Khai Quật Kho Tàng Cổ Sử Hừng Việt tôi đã chứng minh Viêm Đế-Thần Nông, Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ Oa là liên hệ với hay của Đại Tộc Việt. Triết gia Kim Định cũng đã chứng minh như thế nhưng ở dưới một lăng kính khác.

Ta thấy Đế Thuấn là một trong Ngũ Đế và ta thường nghe nói tới Tam Vương Ngũ Đế trong truyền thuyết sáng thế được cho là của Trung Hoa. Nhưng đối chiếu với truyền thuyết và cổ sử Việt ta cũng thấy Ngũ Đế Tam Vương có trong truyền thuyết và cổ sử Việt. Thật vậy, trên cùng ta có Thần Nông-Viêm Đế (ở dạng nhất thể, một người) rối tới bốn vị đế ứng với tứ tượng, trong đó có Đế Minh, vị chi là Ngũ Đế (các vị Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Vong có thể nắm trong nhóm Đế này). Rối tới Tam Vương là Kì Dương Vương, Lạc Long Quân, Hùng Vương (với khuôn mặt sinh tạo).

Truyền thuyết Đế Nghi và hai bà Vương Phi chết ở hồ Động Đình cho thấy hồ Động Đình là đất của ngành nòng âm, nước, Khôn, Thần Nông trong đó có Lạc Việt.

MỘT VÀI NÉT VĂN HÓA NỔI TRỘI KHÁC VÙNG HỒ ĐỘNG ĐÌNH VÀ BÁCH VIỆT
Chắc chắn ngoài những điểm nêu trên vùng hồ Động Đình còn lại rất nhiều di sản văn hóa Bách Việt. Những di tích này một là còn bị chôn vùi dưới lớp bụi thời gian, hai là đã bị Hán hóa đã biến dạng. Một phần di sản văn hóa này đã được ghi lại trong các tác phẩm của nhà thơ Khuất Nguyên (Qu Yuan). Ông là một người hoàng tộc nước Sở làm chức Tả Đồ cho Sở Hoài Vương. Về sau ông bị thất sủng vì đám nịnh thần và bị vua Tương Vương (người nối ngôi Sở Hoài Vương) đầy ra Giang Nam (phía nam sông Dương Tử. Vì buồn phiền, sau đó ông nhẩy xuống sông Mịch La, gần Nhạc Dương hồ Động Đình tự vẫn vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch.

Theo Thái Văn Kiểm “Động Đình Hồ, nơi qui tụ rất đông người Bộc Việt và Lão Việt. Khuất Nguyên đã quan sát địa lý nhân văn và ghi chép những phong dao của người địa phương, kể cả những bài chầu văn, lên đồng, chèo ghe, bơi trải trên Động Đình Hồ, các vũ điệu Thờ Mặt Trời như đã khắc chạm trên mặt những trống đồng Ngọc Lũ và Hoàng Hạ xa xưa… Tất cả những thơ ca của dân gian thu góp trong thời biệt trích nơi Động Đình Hồ và Sông Tương, thi bá Khuất Nguyên đã san định thành Sở Từ Cửu Ca và Trường Ca Ly tao…

Chúng tôi xin trích từ Ly tao, mấy câu thơ trong đó ông có nhắc hai sắc hoa mà ông rất ưa thích là: Mộc Lan (Nerium coronarium)… và giống cây yểu điệu gọi là Túc Mãng tức là Rau Muống…:



Cốt dư nhược tương bất cập hề,
Khủng niên tuế chi bất ngô dữ
Chiêu khiến phê chi Mộc Lan hề,
Tịch Lãm châu chi Túc Mãng.
Bản dịch của Vũ Khánh:
Ta như kẻ trên đường hoảng hốt,
Sợ tháng năm hun hút mau trôi,
Mộc Lan sớm cắt trên đồi,
Chiều tà Túc Mãng hái nơi cạnh giòng”


(Y Học Thường Thức).

    Túc Mãng là rau muống mọc bên bờ nước, một thứ rau của các tộc Bách Việt sống bên bờ nước, ngày nay vẫn là thứ rau quốc hồn quốc túy của người Việt Nam (bữa ăn trưa ở Nhạc Dương, chúng tôi cũng được ăn thứ rau muống mọc ở hồ Động Đình, một thứ rau muống có từ huyển sử Việt. Đĩa rau muống xào ớt tỏi cay xé miệng đặc thù của món ăn Hồ Nam, cay hơn cả đĩa rau muống xào với ớt hiểm Thái Lan chúng tôi đã ăn ở Chiêng Mai, Thái Lan).

Như đã thấy Khuất Nguyên cũng đã viết về truyền thuyết vua Thuấn và hai bà Vương Phi…

Một nét văn hóa được coi là nổi bật nhất của hồ Động Đình hiện nay là Lễ Hội Đua Thuyền Rồng vào ngày tết Đoan Ngọ (Duanwu Jie) mồng 5 tháng 6 âm lịch.

    Như đã nói là truyền thuyết của dân địa phương (đã bị Hán hóa) ngày nay cho rằng Lễ Hội Đua Thuyền Rồng trong tết Đoan Ngọ có nguồn gốc ở hồ Động Đình nhưng lại cho nó liên hệ Khuất Nguyên tự tử chết vào ngày 5 tháng 5 âm lịch tại sông Mịch La (Miluo) gần Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam ngày nay. Khi nghe Khuất Nguyên tự tử, dân vùng hồ Động Đình tìm cách cứu vớt ông. Họ dùng chèo khuấy nước xua đuổi cá, làm bánh ú (zhongzi) đem thả xuống hồ để cho cá ăn để khỏi ăn thịt Khuất Nguyên. Kể từ đó, mỗi năm cứ đến ngày mồng năm tháng năm, nhân dân vùng hồ Động Đình tổ chức lễ Đoan Ngọ, Duanwu mồng 5 tháng 5 đi kèm với lễ hội Đua Thuyền Rồng.

    Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại tổ chức Lể Đua Thuyền Rồng cùng ngày tưởng niệm Khuất Nguyên? Khuất Nguyên là người nước Sở một tộc Bách Việt và Long Vương, ông ngoại của Lạc Long Quân là thủy tổ của ngành nòng nước của Bách Việt như thế dù gì thì Đua Thuyền Rồng nhìn chung cũng là lễ hội nước của Bách Việt trong đó có ngành nước Lạc Việt, Thần Nông.

    Thật ra lễ Hội Đua Thuyết Rồng ở hồ Động Đình vào ngày lễ Đoan Ngọ chỉ là một sự phối hợp mà thôi. Thật sự lễ Đua Thuyền đã có trước thời Khuất Nguyên như tác giả Thái Văn Kiểm ở trên đã cho biết Khuất Nguyên đã mô tả lễ nước với chèo ghe, bơi trải trên Động Đình Hồ. Theo cái nhìn đơn giản thì Lễ Đua Thuyền Rồng ở hồ Động Đình có Long Vương Động Đình Quân ở dưới đáy hồ, cai trị vùng hồ thì phải liên hệ với Long Vương, vua Động Đình Hồ.

    Xa hơn ta thấy lễ Hội Nước có đua thuyền đầu rắn nước đã thấy trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Xin nhắc lại văn hóa rắn có trước văn hóa rồng. Đua thuyền Rắn là tiền thân của Đua Thuyền Rồng.

    Lễ Duanwu cũng còn thấy ở nhiều tộc ở Đông Nam Á như Việt Nam gọi là Đoan Ngọ, Đại Hàn là Dano, Nhật Bản là Tango… nhưng ở mỗi nơi một khác và không nhắc tới Khuất Nguyên. Tại Việt Nam tết Đoan Ngọ chúng ta ăn bánh ú tro, cổ tay đeo chỉ ngũ sắc, giết sâu bọ, ăn cơm rượu nếp, đi lên rừng lên núi hái thuốc…

    Ở Đại Hàn, lễ này gọi là Dano-je (Dano biến âm với Hán ngữ phiên âm Duanwu, Việt ngữ Đoan Ngọ và je với jie, với lễ). Lễ này tổ chức ở một tỉnh duyên hải Gangneung ở địa hạt Gangwon, Nam Hàn. Lễ cũng được tổ chức vào dịp mồng 5 tháng 5 âm lịch nhưng kéo dài năm ngày, hoặc trước hay sau ngày mồng 5. Đại Hàn cho rằng lễ này họ có hàng ngàn năm rồi nhưng nghi thức hiện nay mới thành hình trong thế kỷ qua. Năm 1967, lễ Dano được xếp vào hàng lễ hội văn hóa bản địa (indigenous culture) hạng thứ 13. Kể từ đó, nhất là trong thập niên qua, lễ được phát huy và phát triển để thu hút khách du lịch tới vùng Gangneung này.

    Đại Hàn đã thành công xin được UNESCO thừa nhận ghi lễ Dano vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại tháng 11 năm 2005.

    Khi loan ra, tin này đã làm Trung Quốc phẫn nộ. Họ cho rằng Dano-je lấy từ Duanwu-jie của Trung Quốc. Cả tỉ rưỡi người bị khích động bởi mọi phương tiện của truyền thông Trung Quốc. Đối diện với sự cuồng nộ này, UNESCO và giới di sản văn hóa Đại Hàn viện lý do cho rằng lễ Đoan Ngọ có khắp Đông Nam Á và ở Trung Quốc nhưng ở mỗi nơi mỗi khác, đã mang mầu sắc đặc biệt của văn hóa địa phương. Họ cho rằng Lễ Dano của họ có mang thêm yếu tố lễ hội mặt nạ tuồng cổ và tế lễ của các pháp sư chữa bệnh, có thể kéo dài cả tháng và ở Đại Hàn còn tôn vinh thần núi và các vị thần phù trợ dương và âm qua các nghi thức tế lễ của pháp sư gồm có cả nấu rượu thánh trên đỉnh núi Daegwallyeong ở bên ngoài thành phố Gangneung. Lễ này cũng có thêm lễ hội dân ca Odokddegi, lễ hội mặt nạ tuồng cổ, ngâm thơ, nhiều trò chơi ngoài trời khác, các chợ tiểu công nghệ…

    Trong khi đó lễ Duanwu của Trung Quốc chỉ được cho là liên hệ với Khuất Nguyên. Trong thời kỳ cộng sản “chưa mở cửa” lễ này với hội Đua Thuyền Rồng coi như bị chìm xuồng xuống đáy hồ Động Đình. Gần đây sau khi lễ Dano của Đại Hàn được UNESCO nhận là di sản văn hóa thế giới. Trung Quốc mới cố gắng biến hồ Động Đình trở thành một nơi có văn hóa du lịch.

    Ai đúng ai sai? Câu trả lời của tôi là Lễ Đoan Ngọ là của Đại Tộc Việt. Vì sao? Tiện thể tôi cũng xin biện minh giúp cho Đại Hàn và UNESCO trả lời Trung Quốc.

Thật vậy! Trước hết hãy xét về phía Trung Quốc.


Lễ Duanwu ở hồ Động Đình, nơi cội nguồn của Đại Tộc Việt, nơi đất Bách Việt cũ, vậy lễ này liên hệ với hay của Đại Tộc Việt.

Lễ Duanwu kết hợp với Đua Thuyền Rồng ở hồ Động Đình được cho là liên hệ với Khuất Nguyên. Khuất Nguyên là người nước Sở, một tộc của Bách Việt. Hiển nhiên lễ này của Đại Tộc Việt.

    Đua Thuyền Rồng được cho là có nguồn gốc ở hồ Động Đình nghĩa là liên hệ với Long Vương. Hiển nhiên là của Đại Tộc Việt. Như đã nói trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn đã có cảnh đua thuyền có hình đầu rắn bắt đầu thần thoại hóa tiến tới hình đầu rồng về sau (Giải Đọc Trống Đồng Nòng Nọc, Âm Dương Đông Nam Á). Văn hóa rắn có trước văn hóa rồng. Theo cái nhìn của người trần mắt thịt thì thuyền rồng phải liện hệ với Long Vương, ông ngoại Lạc Long Quân. Như thế đua thuyền rồng ở hồ Động Đình phải liên hệ với Đại Tộc Việt, phải có nguồn gốc từ ngành Lạc Long, tức lạc bộ trãi của Bách Việt. Vậy lễ Duanwu của Đại Tộc Việt.

…..

Bây giờ xét về phía Đại Hàn.


    Lễ Dano ở tỉnh Gangneung, hạt Gangwon, một vùng hẻo lánh ở bờ biển phía đông của Đại Hàn. Tên Hán của Gangneung là Jiangling (Giang Lăng) trùng tên với quận Giang Lăng ở Hồ Bắc trên hồ Động Đình. Theo anh Đỗ Ngọc Thành, Gangneung của Đại Hàn đọc hơi giống như tiếng Mân Việt/ Triều Châu là Gang-leng! Ở Gangwon cũng có nhiều địa danh liên hệ với các vùng ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc như tên Dungjungchuwal là hồ Động Đình… Điểm này các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng người Đại Hàn ở đây đã lấy từ các tên Hán của Trung Quốc. Tôi nghĩ ngược lại, đây cũng có thể là những tên có gốc từ ngôn ngữ Bách Việt mà tộc Đại Hàn có gốc Lạc bộ trãi này còn giữ lại được. Đây là một bằng chứng Hán ngữ cũng lấy các từ Bách Việt rồi Hán hóa đi trong dòng giao lưu hai chìều (tôi tin chắc rằng anh Đỗ Ngọc Thành nay mai sẽ đưa ra ánh sáng nguồn gốc tên của các địa danh, lễ lạc… ở vùng hồ Động Đình là phát xuất từ chữ nôm cổ Bách Việt). Như thế lễ Dano của Gangneung phải có liên hệ với lễ Đoan Ngọ của Bách Việt. Điều này giải thích tại sao một số du khách Đại Hàn tìm về thăm hồ Động Đình và cho rằng Long Vương là thần tổ của họ như người hướng dẫn viên đã nói với tôi.

    Ở trên, ta đã biết Đại Hàn có các tộc có gốc Bách Việt. Lễ Dano ở tỉnh Gangneung địa hạt Gangwon này có lẽ là của tộc Tam Hàn Lạc viết với bộ trãi như từ Lạc trong tên Lạc Long Quân. Thật vậy, như thấy ở trên, lễ Dano này năm 1967 được xếp vào hàng lễ hội văn hóa bản địa, thổ dân (indigenous culture) hạng thứ 13. Thổ dân này gốc Tam Hàn Lạc bộ trãi.

Vậy lễ Dano này liên hệ với văn hóa Đại Tộc Việt.


    Người Đại Hàn có lễ hội Đua Thuyền Rồng trong lễ Dano nhưng họ không giải thích tại sao. Hiển nhiên họ đã lấy từ đâu đó lâu đời quá rồi nên không còn nhớ. Tộc Đại Hàn này là Lạc bộ trãi con cháu của Rồng nên có lễ hội đua thuyền rồng. Cũng có thể họ mang theo họ trên đường di tản từ hồ Động Đình nơi có Long Vương. Hãy nhìn những chiếc thuyền rồng của họ trong lễ hội này.



Đua thuyền rồng trong lễ Dano (nguốn: winkai.blog.gtvod.com)



    Ta thấy rất rõ thuyền rồng có mầu xanh trắng là những con rồng mang âm tính khác với các thuyền rồng vàng mang dương tính ta thường thấy. Đây là rồng nước, rồng âm của dòng Long Vương.

    Lễ Dano có kèm theo lễ hội tế lễ của các pháp sư chữa bệnh Shaman. Có học giả Trung Quốc cho rằng các ma thuật Shaman này lấy từ tộc Miêu thời nhà Chu sống ở vùng hồ Động Đình. Ta đã biết Tam Miêu liên hệ với hay nằm trong Đại Tộc Việt. Tục thầy pháp chữa bệnh này giống tục giết sâu bọ và lên rừng lên núi hái cây cỏ làm thuốc chữa bệnh trong ngày lễ Đoan Ngọ của Việt Nam.

    Ngày Dano họ nấu rượu thánh trên đỉnh núi Daegwallyeong ở bên ngoài thành phố Gangneung. Chúng ta nấu rượu nếp cúng lễ rồi ăn cơm rượu nếp.

    Người Đại Hàn cho rằng ngày Dano 5 tháng 5 âm lịch là thời điểm trong năm độ cương cường, dũng mãnh của yếu tố dương trong thiên nhiên lên tới tột độ. Tại sao họ lại cho như thế? Không thấy họ giải thích. Nếu có giải thích thì tôi đoán họ cũng chỉ hiểu theo một góc cạnh duy tục mà thôi. Theo tôi thì phải nhìn dưới con mắt của nòng nọc, âm dương, của Dịch lý. Theo Dịch số 5 là số Li, Lửa, tức dương. Số năm là số trục dương. Theo chiều đường thẳng số 5 nằm ở giữa 9 con số từ 1 tới 9. Theo chiều mặt bằng, số 5 nằm ở tâm hình vuông có cạnh là những con số còn lại của 9 con số. Hình vuông này gọi là ma phương. Ma phương 5/15 (có số trục ở tâm là số 5 và tổng số các con số ở các chi là 15). Ma phương trục này thường thấy nhất và đi với Dịch. Trong ngũ hành của Trung Hoa nếu xếp theo hình vuông thì hành Thổ ở tâm hình vuông tức ứng với núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới tức số 5 Li. Số 5 Li là số biểu của Kì Dương Vương có biểu tượng là Núi Trụ Thế Gian, Trục Thế Giới … là vua mặt chính ngọ ở thiên đỉnh, trên đỉnh Trục Thế Giới tức là vị vua mặt trời nóng bỏng, chói sáng nhất, rạng ngời nhất trong ngày. Do đó Xích Quỉ là Người Mặt Trời chói chang, tổ của Người Việt Mặt Trời Rạng Ngời. Ngày là mặt trời, là nhật, dương, ngày số trục 5 là ngày dương cực đại. Tháng là trăng là nguyệt, là âm, tháng 5 là tháng dương cực đại. Vì thế mà ngày Đoan Ngọ 5 tháng 5 là ngày thiên nhiên có dương tính cực đại. Điều này ta cũng thấy ở các nước có liên hệ với hay có nguồn gốc Bách Việt ví dụ như Nhật Bản. Người Nhật coi tháng 5 âm lịch là tháng có dương tính nhất nên họ có ngày lễ Con Trai (Boy’s Day) vào tháng 5. Ngày Lễ Con Trai này thường được biểu tượng bằng những cờ phướn hình cá chép mầu, cá Koi. Cá chép hóa rồng biểu tượng cho sự thành đạt của con trai, phái nam…

    Ở Việt Nam ta cũng thấy ngày 5 tháng 5 âm lịch là ngày giết sâu bọ. Vì sao? Vì sâu bọ là loài mang âm tính nguy hại gây ra bệnh tật. Ngày 5 tháng 5 âm lịch là ngày thiên nhiên có dương tính, dương khí cực đại nên là lúc thuận tiện giết sâu bọ trong người và ngoài thiên nhiên. Loài vật mang âm tính trong thời gian này cũng rất sợ hãi như thấy qua câu “then lét như rắn mồng năm” (rắn là nước là âm nên sợ lửa, dương) và đây cũng là thời điểm cây cỏ trong thiên nhiên được cho là thấm nhuần dương khí của trời đất nhiều nhất nên có tác dụng hữu hiệu nhất. Do đó mới có tục đi hái thuốc trị bịnh vào lễ Đoan Ngọ ở Việt Nam… Đây là nguyên lý nòng nọc, âm dương trong cách trị bệnh. Điểm này giống như thấy ở trên, trong lễ Dano của Đại Hàn, các pháp sư tế lễ triệu thỉnh các vị thần phù trợ âm và dương về chữa bệnh.

    Như thế ta thấy rất rõ Lễ Đoan Ngọ kết hợp với Đua Thuyền Rồng thấy ở hồ Động Đình là của Đại Tộc Việt vì đất hồ Động Đình là đất của Đại Tộc Việt, là nơi nguồn cội của Đại Tộc Việt, nơi có Long Vương Động Đình Quân, ông ngoại của Lạc Long Quân, nơi đất Sở Việt và nhiều tộc Việt khác. Lễ Dano và Đua Thuyề Rồng ở Gangneung, Đại Hàn là của một tộc Tam Hàn Lạc bộ trãi liên hệ với Lạc Việt Lạc Long Quân, có thể họ bị đẩy đi từ vùng hồ Động Đình. Cũng như đã biết con sông Tương đồ vào hồ Động Đình bắt nguồn từ huyện Lâm Quý của khu tự trị của tộc Tráng (Zhuang), ở Quảng Tây ngày nay. Tộc Tráng là một chi tộc Lạc Việt. Người Tráng cũng cho họ là con cháu của Vua Rồng. Họ có trống đồng như chúng ta. Văn hóa ngày xưa đi xuôi ngược như con thuyền theo một dòng sông. Lạc Việt ngày xưa có mặt ở hồ Động Đình là một chuyện tự nhiên.

    Đáng lẽ Việt Nam phải xin UNESCO thừa nhận lễ Đoan Ngọ là di sản văn hóa của nhân loại là của Việt Nam vì chúng ta là tộc Việt duy nhất còn lại của Bách Việt. Buồn thay!

Vũ Trụ giáo và hồ Động Đình.


    Ta đã thấy rõ triết truyết Vũ Trụ Tạo Sinh, Vũ Trụ giáo cốt lõi của văn hóa Đại Tộc Việt bàng bạc trong địa hình địa vật thần kỳ, kỳ bí của hồ Động Đình, trong truyền thuyết Kì Dương Vương xuống thủy phủ của Long Vương lấy công chúa Thần Long của Long Vương. Hồ Động Đình là đất thần tiên của Đạo giáo theo Vũ Trụ Tạo Sinh Vũ Trụ giáo. Tại một ngôi mộ cổ thời Tây Hán ở Đồi Mã Vương ở Hồ Nam trong đó có thi hài của bà Tân Truy (辛 追) được ướp vẫn còn trong tình trạng tốt, cũng tìm thấy trong một phiên bản sớm nhất của Đạo Đức Kinh do Lão Tử viết. Trong Đạo Đức Kinh có nói tới các tộc ở đây có chữ viết nòng nọc khoa đẩu (Chữ Nòng Nọc Trên Trống Đồng). Ở thư viện này cũng có một bộ Dịch tre không giống các loại Dịch khác. Hồ Động Đình ngày xưa một thời là đất nhà Chu, cổ thư đã chép Việt Thường đem tặng Chu Thành Vương Lịch Rùa trên có khắc chữ khoa đẩu ghi lại mọi chuyện kể từ khi “mở ra trời đất” (tức quá trình Vũ Trụ Tạo Sinh). Trước đây tại vùng phía dưới sông Dương Tử (tức vùng hồ Động Đình của Bách Việt), người ta cũng đào được những trụ cột hình lục giác có ghi khắc hình mang hình ảnh của một trụ Dịch (Trần Ngọc Ninh, Tuyết Sơn)…

    Những điều này cho thấy Đại Tộc Việt có một thứ Dịch nòng nọc. Thứ Dịch này còn ghi khắc lại trên trống đồng nòng nọc, âm dương của đại tộc Đông Sơn.

    Trong phạm vi bài viết chỉ xin nói tới một vài nét văn hóa tiêu biểu như trên còn những điểm khác ước mong được các tác giả khác đào tìm ví dụ như về ngôn ngữ chẳng hạn chắc chắn tên các địa danh vùng hồ Động Đình phải có gốc từ ngôn ngữ của Bách Việt, của Việt Nam. Từ trước tới nay, tôi đã dùng mặt chữ quốc ngữ ABC, Ấn-Âu ngữ, Phạn ngữ chuyển một số từ Hán Việt qua Việt ngữ (như ở trên đã thấy qua từ Quân: Quân = Việt ngữ cổ Khuấn = Kun = Mường ngữ Cun = Mông Cổ ngữ Khan = Anh ngữ King…). Về chữ Hán thì đây là sở trường của anh Nhạn Nam Phi Đỗ Ngọc Thành. Hy vọng anh sẽ phổ biến sớm những “khai quật” không những trong địa hạt ngôn ngữ mà cả các di tích văn hóa khác của vùng hồ Động Đình nói riêng và của Bách Việt nói chung. Về ngôn ngữ học, tôi và anh Thành đi theo hai ngả nhưng cùng hướng về một chủ điểm.


Kết Luận


Hồ Động Đình là phần đất của Văn Lang của Đại Tộc Việt. Hồ Động Đình là nơi cội nguồn của Đại Tộc Việt. Những di tích của truyền thuyết Kì Dương Vương lấy con gái Long Vương hồ Động Đình Quân hiện còn thấy ở hồ Động Đình. Long Vương, ông ngoại Lạc Long Quân “có thật” còn thấy qua các di sản văn hóa ở hồ Động Đình như đền Động Đình, Đua Thuyền Rồng, các truyền thuyết khác… Lễ Dano ở Gangneung Đại Hàn với hội Đua Thuyền Rồng và họ nhận hồ Động Đình là đất tổ, Long Vương là thần tổ cho thấy họ có một tộc Lạc bộ trãi như Lạc Việt. Điểm này củng cố thêm, xác quyết thêm cho thấy hồ Động Đình là của Đại Tộc Việt, nguồn cội của Bách Việt.

Hồ Động Đình là chốn thần kỳ nơi cội nguồn của Đại Tộc Việt.


Tài Liệu Tham Khảo:



.Các tác phẩm của Nguyễn Xuân Quang.

.Bình Nguyên Lộc, Nguồn Gốc Mãi Lai Của Dân Tộc Việt Nam.

.Thái Văn Kiểm, Thế Giới Rau Muống, Y Học Thường Thức số 16, tháng 7, 1996, tr.7-8.

.Trần Quốc Vượng, Hùng Vương Dựng Nước, NXB KHXH, HN, 1972 t III, tr.354.

.chinaheitagenewsletter.org, Duanwu: The Sino-korean Dragon Boat Races

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2019

Bách Việt là ai ? Hán & Bách Việt

 


Bách Việt là ai và ở đâu?

Vào thời thượng cổ, từ đời nhà Thương 商朝 (khoảng 1600-1046 TCN), trong văn tự thì chỉ có một chữ Việt 戉 (nghĩa là cái rìu), cũng là tên chung cho tộc người ở phía Nam không phải là người Trung Hoa, do tộc người này sử dụng rìu (Việt) làm công cụ. Về sau, vào thời Xuân Thu Chiến quốc 春秋 戰國 (722-221 TCN) bắt đầu trong văn tự có hai chữ Việt là 越 và 粤, đều chỉ bộ tộc Việt, dùng như nhau (Sách cổ viết là 越粵互通-Việt Việt Hỗ Thông), ta hay gọi 越 là Việt bộ tẩu 走 (đi, chạy) và Việt 粤 là Việt bộ mễ 米-(lúa)2.

Trong Hán ngữ cận, hiện đại, hai chữ Việt này (có thể từ sau đời Minh) thì dùng có phân biệt rõ ràng. Chữ Việt bộ tẩu 越 là ghi tên tộc Việt của nước Việt có lãnh thổ ở vùng Bắc Triết Giang, ngày nay là vùng Thượng Hải, Ninh Ba, Thiệu Hưng (Cối Kê 會稽 xưa). Một loại ca kịch cổ ở vùng này vẫn còn tên là Việt Kịch 越剧. Chữ Việt bộ tẩu này cũng là tên của tộc Nam Việt (Triệu Đà) Âu Việt và Lạc Việt (Việt Nam ngày nay), Mân Việt (Phúc Kiến), Điền Việt (Vân Nam, Quảng Tây)… Chữ Việt 粤 bộ mễ 米 ngày nay dùng ghi tên cư dân vùng Quảng Đông, Hồng Kong, Ma Cao… những cư dân này sử dụng ngôn ngữ gọi là tiếng Quảng Đông (Cantonese). (Ai đến Quảng Châu đều thấy biển xe ô tô đều bắt đầu bằng chữ 粤 là vì vậy).

Bởi vì xưa có đến hàng trăm tộc Việt, cho nên sử sách gọi chung là Bách Việt 百越 hoặc 百粤. Tên gọi Bách Việt xuất hiện trong văn sách lần đầu tiên trong bộ Lã thị Xuân Thu 吕氏春秋 của Lã Bất Vi 呂不韋 (291–235 TCN) thời nhà Tần.

Trong lịch sử Trung Hoa, toàn bộ vùng đất Giang Nam (tên gọi vùng Nam Sông Dương Tử), rộng bảy tám ngàn dặm từ Giao Chỉ đến Cối Kê, từ trước thời Tần Hán đều là nơi cư ngụ của các tộc Bách Việt.

Thời nhà Hạ gọi là Vu Việt 于越, đời Thương gọi là Man Việt 蛮越 hoặc Nam Việt 南越, đời Chu gọi là Dương Việt 扬越, Kinh Việt 荆越, từ thời Chiến quốc gọi là Bách Việt百越.

Sách Lộ Sử của La Bí (1131 – 1189) người đời Tống viết: Việt thường, Lạc Việt, Âu Việt, Âu ngai, Thả âu, Tây âu, Cung nhân, Mục thâm, Tồi phu, Cầm nhân, Thương ngô, Việt khu, Quế quốc, Tổn tử, Sản lí (Tây Song Bản Nạp), Hải quý, Cửu khuẩn, Kê dư, Bắc đái, Phó cú,  Khu ngô (Cú ngô)…, gọi là Bách Việt.

Hán Hóa Bách Việt – Giai đoạn từ thượng cổ đến trước thời Tần-Hán

Gọi Hán hóa chỉ là để cho tiện thôi, thực ra không đúng, vì lúc này làm gì đã có nhà Hán. Hai nước Ngô – Việt là những tộc Bách Việt được ghi chép rất sớm trong sử sách. Nước Ngô 吴国,còn gọi là Cú Ngô 句吴, Công Ngô 工吴,攻吾… lập quốc vào thời Chu Vũ Vương (thế kỷ 12 TCN), kinh đô ở Tô Châu 苏州 ngày nay, từ thủy tổ là Ngô Thái Bá 吳太伯 truyền đến Phù Sai夫差 thì bị diệt vong bởi nước Việt (473 TCN). Thực ra ghi chép sớm nhất trong sử sách là Vu Việt 于越, tiền thân của nước Việt 越 国 thời Chiến quốc. Nước Việt đã tồn tại muộn nhất cũng từ thời nhà Thương, không tham gia vào sự kiện Vũ Vương Phạt Trụ (1046 TCN), nhưng sử có ghi là khá lâu trước đó đã làm tân khách của Chu Thành Vương 周成王(1132 – 1083 TCN).

Nước Việt đã có một văn hóa dân tộc đặc sắc, gọi là Văn hóa Mã Kiều 馬橋文化, mà các chứng tích đã tìm thấy khi khai quật di chỉ Thái Hồ 太湖地區. Nước Việt định đô ở Cối Kê 會稽 (Thiệu Hưng ngày nay) truyền đến đời Câu Tiễn句踐 (496 – 464 TCN) thì bành trướng lên phía Bắc, năm 473 TCN sau khi diệt nước Ngô, mở rộng bờ cõi Bắc chiếm Giang Tô 江蘇, Nam đoạt Mân Đài 閩台 (tức Phúc Kiến ngày nay), Đông giáp  Đông Hải 東海, Tây đến Hoàn Nam 皖南 (phía Nam An Huy ngày nay), hùng cứ một cõi Đông Nam

Đến năm 306 TCN, nước Sở 楚國 nhân nước Việt, triều vua Vô Cương, nội loạn, bèn liên kết với nước Tề 齊國 tiến chiếm nước Việt, đổi thành quận Giang Đông, nước Việt tuyệt diệt và bị Sở hóa từ đó. Những sự kiện này được ghi chép tỉ mỉ trong bộ sử Ngô Việt Xuân Thu 吳越春秋 do Triệu Diệp 赵晔 thời Đông Hán soạn (~năm 25). Các nhà khoa học thế giới ngày nay cũng đã phục dựng đầy đủ lịch sử này, ví dụ xem Eric Henry4.

Đến đây cần nói rõ, Sở là gốc Hoa Hạ (sau này gọi là Hán) hay là Bách Việt, hiện còn nhiều tranh cãi. Dân Hoa Hạ (chính là tộc Hán sau này) nhận mình là con cháu của Tam Hoàng, Ngũ Đế. Tam Hoàng thì rất thần tiên, mơ hồ, Ngũ Đế có vẻ cụ thể hơn. Theo Sử Ký của Tư Mã Thiên5 thì đó là năm chi: Hoàng Đế (黃帝), Chuyên Húc (顓頊), Đế Cốc (帝嚳), Đế Nghiêu (帝堯), Đế Thuấn (帝舜). Dân nước Sở tự nhận thuộc chi Chuyên Húc, họ Cao Dương 高阳 tức là tộc Hoa Hạ (Hán). 

 

Đất nước Sở nằm ở đoạn giữa sông Trường Giang, vùng Nam Bắc Hồ Động Đình, quen gọi là vùng Kinh Sở (Hồ Bắc – Hồ Nam của Trung Hoa ngày nay). Vùng Kinh Sở nằm chồng lấn phía Nam lưu vực sông Hoài sông Vị của dân Trung Nguyên Hoa Hạ. Đó là vùng đất đầu tiên mà một chi của dân Hoa Hạ (chi Chuyên Húc) thiên di xuống. Nhà thơ Khuất Nguyên (340 – 278 TCN) người nước Sở, mở đầu bài thơ Ly Tao đã viết6: Bá Dung nhớ cha ta thuở nọ, /Vốn dòng vua về họ Cao Dương (Nhượng Tống dịch thơ). Trước khi con cháu Cao Dương nam thiên đến đây, dân bản địa là tộc nào? Nước Sở lập quốc vào cuối đời Thương đầu đời Chu (1042 TCN). Sách Sử Ký – thiên Sở Thế gia viết rằng người Sở là dân Man (Sở Man), vua Sở nhận mình là dân Man Di7. 

Man là chữ người Hoa Hạ gọi dân miền Nam không phải là Trung Hoa. Những khai quật khảo cổ ở vùng Kinh Sở gần đây cũng cho thấy rằng thực ra cư dân tối cổ ở vùng Kinh Sở có nguồn gốc Tam Miêu, một dân tộc thuộc nhóm Bách Việt. Đây có thể là nhóm Âu Việt ở phía Tây nên còn gọi là tộc Tây Âu, để phân biệt với Đông Âu là tộc Âu Việt phía Đông, tức vùng Mân – Đài (Phúc Kiến).

 

Tộc Tây Âu, theo các nhà dân tộc học, có thể là tổ tiên các tộc H’mông, Lào, Miến, Thái… hiện nay, ít nhiều cũng có cùng huyết thống người Việt Nam cổ. Như vậy là quá trình Trung Hoa hóa dân Man (Miêu tộc bản địa) đã bắt đầu từ cuối Thương đầu đời Chu rồi. Có thể tạm gọi đó là đợt đồng hóa thứ nhất.

 

Sự Trung Hoa hóa theo thế lực nước Sở, bành trướng đến Trùng Khánh, Quý Châu, về sau sang tiếp phía Đông, trở thành một trong thất hùng thời Chiến quốc. Đặc biệt là quý tộc Sở cổ đều có họ Hùng (熊 – con gấu), vua Sở là Hùng Vương, phải chăng có liên hệ gì đó đến Hùng Vương ở Việt Nam, chỉ khác chữ Hán viết 雄 – hùng mạnh, (trong sử Trung Hoa cổ không tìm thấy ghi Hùng Vương 雄 này, có lẽ đây là do các nhà Nho Việt Nam viết lại sau này!). Tóm lại đến thời Khuất Nguyên, rồi sau đó là lúc Sở diệt Việt phía Đông, thì Sở đã hoàn toàn biến thành dân Trung Hoa, và quá trình Trung Hoa hóa Ngô – Việt là quá trình đồng hóa thứ hai, tiến hành thông qua nước Sở.

Các nhà khoa học Nhật, Mỹ, đã có nhiều phát hiện, chứng minh nền văn minh Ngô Việt sau khi nước Việt bị diệt và Trung Hoa hóa (đúng hơn là Sở hóa), đã theo dòng người Ngô Việt chạy ra biển sang Nhật Bản (tiếng Nhật Bản đọc Hán tự theo kiểu nước Ngô, nên gọi là ごおん-Go On- Ngô âm 呉音). 

Nền văn minh đó chủ yếu theo bộ phận tinh hoa của dân Ngô Việt chạy xuống phía Nam hợp lưu cùng Việt bản địa, thành ra văn minh Việt kéo từ Lĩnh Nam (phía Nam dãy Ngũ Lĩnh – tức Bắc Lưỡng Quảng ngày nay) đến Giao Chỉ. Theo phát hiện của Jerry Norman và Tsu-lin Mei (Washington University và Cornell University) thì nhiều từ cổ của tộc Việt nước Ngô Việt hiện vẫn thông dụng trong tiếng Việt ngày nay, ví dụ các từ: chết; chó, đồng (trong đồng cốt), sông, khái (hổ), ngà (trong ngà voi), con (trong con cái), ruồi, đằm (trong đằm ướt), sam (con sam), biết; bọt , bèo…8 Điều này chứng tỏ rằng dân Lạc Việt ít nhiều có cùng huyết thống với dân Ngô Việt xưa. (Xem bản đồ).

Cho đến trước khi Tần Thủy Hoàng diệt được sáu nước, dẹp bỏ nhà Chu, thống nhất Trung Hoa (221 TCN) thì dân Hoa Hạ (Hán tộc) chỉ chiếm lãnh và đồng hóa được dải đất từ Hoàng Hà xuống đến Ngũ Lĩnh9còn từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (Lưỡng Quảng, Giao Chỉ, Hải Nam… gọi tắt là Lĩnh Nam) thuộc về Âu Việt (gọi chung Tây Âu và Đông Âu) và Lạc Việt. Từ Kinh Sở trở về Tây, Tây Nam (Vân Nam) vẫn còn thuộc về Điền Việt, Tây Âu, Đại Lý…

Vùng Bách Việt phía Tây Nam này (Vân Nam) thì mãi đến thế kỷ 12 còn độc lập, dù người Hán có tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm chiếm lẻ tẻ. Chỉ sau khi Mông Cổ chiếm Đại Lý (1253), Vân Nam, rồi sau đó chiếm nốt Trung Hoa, lập ra nhà Nguyên, thì Vân Nam mới nhập vào Trung Hoa. Năm 1381, Minh Thái Tổ mới bình định xong Vân Nam và cuộc Hán hóa hoàn tất rất nhanh. Ngày nay hơn 61% cư dân Vân Nam là người Hán.

Vùng Lĩnh Nam chiếm làm đất Trung Hoa từ thời Tần – Hán, nhưng quá trình Hán hóa thì khá khó khăn và cho đến nay vẫn chưa xong hết (!). Cổ sử Trung Hoa chép thì Lĩnh Nam có nhiều bộ tộc Việt lập quốc như Tây Âu, Lạc Việt… có nước Dạ Lang (nhưng không thấy chép Văn Lang!). Âu và Lạc10 là một tộc Việt hay là hai tộc Việt khác nhau, cho đến tận ngày nay vẫn còn tranh cãi. Sách “Hoài Nam Tử” (139 TCN) thì chỉ viết có Tây Âu11 không có nói đến Lạc chỗ nào cả. 

 

Sách “Sử Ký” (94 TCN) muộn hơn một ít thì cũng có viết Âu, không tìm thấy chữ Lạc đứng riêng một mình, mà luôn luôn chỉ có chép Âu Lạc liền nhau12. Tuy nhiên trong Lã thị Xuân Thu (291–235 TCN) sớm nhất thì có chép” Việt Lạc-越骆”13. Việt Lạc rất có thể chính là nước Lạc Việt trong sử sách sau này, Việt Lạc là ghi âm trực tiếp từ ngôn ngữ người Việt, theo ngữ pháp Việt, còn sau này ghi Lạc Việt là ghi chép qua thông dịch sang Hán Ngữ, theo ngữ pháp Hán.

Luận theo sử sách chép, có thể thời tiền Tần thì Âu và Lạc là hai chi Việt khác nhau. Thời kỳ chiến đấu chống lại Tần thì có thể hai chi Việt này liên minh lại với nhau thành một khối Âu Lạc. Lúc đó trung tâm là ở Nam Trung Hoa, vùng Vũ Minh Mã đầu (Nam Ninh – Quảng Tây ngày nay). Chỉ sau khi Hán Vũ Đế bình Nam Việt của Triệu Đà thì hai chi này mới lại phân chia ra, và trung tâm di về vùng quanh Hà Nội ngày nay.

Đồng thời với nước Lạc Việt có nước Tây Âu hay Âu Việt mà người đứng đầu trong sử chép là Thục Phán. Tuy nhiên Âu Việt lập quốc lúc nào và Thục Phán từ đâu ra thì sử sách không ghi rõ. Rất nhiều ý kiến cho rằng Thục Phán là hậu duệ của vương triều nước Thục. Quả thực sử có chép một quốc gia tên là Thục Quốc, ở Tây Nam Trung Hoa ngày nay. 

 

Thường Cừ (347)người đời Tấn viết trong Sách “Hoa Dương Quốc Chí”14: “Nước Thục Đông giáp nước Ba, Nam giáp Việt, Bắc phân giới với nước Tần, Tây tựa Nga Ba”. Vị trí địa lý như vậy nên cư dân ở đây bao gồm người Khương, người Việt, người Hoa Hạ. Dòng họ Khai Minh làm vua nước Thục, truyền được 12 đời, đến năm 316 TCN đời Chu Thận Vương thì bị nhà Tần diệt15, hậu duệ chạy về phương Nam. Sử chép đến đây thì đứt đoạn, không nói gì tiếp.

Cho nên về sau nói Thục Phán là hậu duệ Khai Minh thị, cha Thục Phán là Khai Minh Chế chiếm lưu vực Diệp Du Thủy (tức thượng nguồn sông Hồng)16, xưng là An Tri Vương vua nước Tây Âu, sau truyền ngôi cho con là Phán, cũng chỉ là một giả thuyết, chép lại theo truyền thuyết của tộc dân Đại Y17.

Lúc này cũng là thời kỳ theo truyền thuyết là có nước Văn Lang ở phía trung và hạ lưu sông Hồng (trong cổ sử Trung Hoa không có tên nước Văn Lang, chỉ có tên một nước là Dạ Lang, liệu có liên quan đến Văn Lang không?), do dòng họ Hùng làm vua. Việc Thục Phán là hậu duệ nước Thục, cũng như nước Văn Lang có vua Hùng trị vì 18 đời trong sử An Nam là ghi lại theo truyền thuyết. Tuy nhiên Thục Vương Tử tên Phán, Hùng Vương vua Lạc Việt, Thục diệt Hùng Vương chiếm lãnh thổ, xưng là An Dương Vương thì có ghi trong sử cổ Trung Hoa từ đầu Công nguyên.

Theo quyển “Việt sử lược”18, của tác giả không rõ tên, có lẽ là người Việt Nam khắc in ở Trung Hoa vào quãng cuối Nguyên đầu đời Minh (~1360), có viết về nước Văn Lang, vua là Đối Vương 碓王, sau bị Thục Phán đánh đuổi, Phán xưng là An Dương Vương.

Sách cổ “Thủy kinh chú” dẫn lại lời ghi trong “Giao châu ngoại vực ký” rằng19 “… Thục Vương Tử dẫn binh tướng ba vạn đánh lại Lạc Vương 雒王, Lạc hầu 雒侯, thu phục các Lạc Tướng. Rồi đó Thục Vương Tử xưng là An Dương Vương”. Sách “Cựu Đường thư” dẫn lại “Nam Việt chí” chép20 “Đất Giao Chỉ vô cùng màu mỡ, xưa có vua xưng là Hùng Vương 雄王, có Lạc hầu phò tá. Thục Vương Tử dẫn quân tướng ba vạn tiến đánh, diệt được Hùng Vương. Thục xưng làm An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ”. 

 

Như vậy thì sử sách có ba tên gọi cho vua nước Lạc Việt: Lạc Vương, Hùng Vương, Đối Vương. Có nhiều ý kiến cho rằng ba tên gọi này là một, chính là Lạc Vương, các tên khác do về sau sao chép nhầm chữ Lạc 雒 của Hán ngữ mà thành21. Dầu sao thì cũng có hai lý giải về truyền thuyết danh xưng Hùng Vương, một là dòng dõi họ Hùng Vương nước Sở, hai là Lạc Vương vua của dân Lạc Việt. 

 

Dù tên tuổi đúng sai thế nào, thì Hùng Vương không chỉ thuần túy là truyền thuyết của Việt Nam, mà cũng có ghi trong cổ sử Trung Hoa. Nhân vật Thục Phán tuy nguồn cội chưa xác định, nhưng cũng có thật, đánh chiếm Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc xưng là An Dương Vương cũng là có thật, có ghi trong chính sử không chỉ của Việt Nam22.

Tần diệt Sở, rồi đánh chiếm Lĩnh Nam, Đô Úy Triệu Đà được Tần cắt cử quản lĩnh Quế Lâm, Tượng Quận. Nhân khi nơi nơi nổi lên chống Tần, năm 204 TCN Triệu Đà bèn chiếm Lĩnh Nam lập nước Nam Việt, đóng đô ở Phiên Ngung (Quảng Châu) và đánh chiếm Âu Lạc. Sách “Giao Châu ngoại vực ký” chép: “Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”23. 

Sách “Thái Bình Ngự Lãm” dẫn “Nhật Nam truyện” còn chép phóng đại hơn, nỏ một phát giết ba vạn người và còn kể tỉ mỉ chuyện tình Mỵ Châu Trọng Thủy, chuyện mất nỏ thần, dẫn đến An Dương Vương thất bại24. Nước Âu Lạc từ đó nhập vào nước Nam Việt25.

 

Triệu Đà lập nước Nam Việt năm 203 TCN, giữ độc lập với nhà Hán được 92 năm, truyền 5 đời vua, đến đời Triệu Kiến Đức và thừa tướng Lữ Gia26 thì mất nước vào tay Hán Vũ Đế năm 111 TCN. Một dải Lĩnh Nam và Đông Hải bị Hán chiếm và Hán hóa kéo dài hơn ngàn năm, ngoại trừ Lạc Việt, còn lại hoàn toàn trở thành Hán. Lạc Việt, sau hơn 1000 năm nô lệ và Hán hóa, vẫn giữ được bản sắc và nền văn minh Việt, cuối cùng thì giành được độc lập và trở thành Đại Cồ Việt, Đại Việt, Nam Việt và Việt Nam đến tận ngày nay. Đó là một trường hợp duy nhất mà Trung Hoa không thể Hán hóa được.

Vì sao Đại Việt không bị Hán hóa?

Đồng hóa dân tộc (national assimilation) gồm: 

1 – Đồng hóa tự nhiên: đây là một xu hướng tự nhiên trong tiến trình lịch sử loài người.

2 – Đồng hóa cưỡng chế: sự cưỡng bức một dân tộc bị trị chấp nhận ngôn ngữ, chữ viết, phong tục, tập quán của dân tộc thống trị; đây là một tội ác.27 Người Hán đã thực hiện cả hai biện pháp đồng hóa này hơn một ngàn năm mà Đại Việt vẫn không bị đồng hóangười Trung Hoa ngày nay tìm mọi lý lẽ để biện minh nhưng chính họ cũng không thấy thuyết phục lắm. Chẳng hạn:

* Việt Nam ở xa Trung Nguyên, núi sông cách trở không tiện đồng hóa. Phản bác lại: Tại sao Vân Nam cũng xa, núi sông cách trở hơn nhiều mà chỉ trong mấy trăm năm đã bị đồng hóa hoàn toàn.

* Việt Nam ở phương Nam, nóng ẩm, người Hán không ở được. Thế tại sao Hải Nam cũng như vậy mà lại ở được, đồng hóa xong rồi.

* Tại vì số lượng người Hán di dân xuống Việt Nam ít. Thực ra, không có bằng chứng nào là ít hơn Hải Nam, Vân Nam cả. Chỉ riêng số quan lại cai trị và số quân chiếm đóng trong hơn một ngàn năm, cũng không ít hơn số dân bản địa.

Chỉ có thể hiểu người Hán ở đây đã bị Việt hóa. Cũng có ý kiến cực đoan bênh vực, nói rằng thực ra đã Hán hóa dân Việt rồi nhưng từ sau năm 1945, Việt Nam đã thanh lọc lại hết!

Cũng có một số kiến giải của người Trung Hoa bình thường ngày nay, xem ra cũng ít nhiều có lý, ví như:

* Người Kinh có ba nguồn gốc: Người Lạc Việt, Người Thục, Người Hán. Do vậy người Kinh hấp thụ được tinh hoa của ba chủng tộc nên trở thành một tộc người ưu tú.

* Người Hán ở Việt Nam kể cả các tầng lớp cai trị không đồng hóa được người Kinh, trái lại bị đồng hóa ngược trở thành người Việt. Người Kinh là một tộc người có năng lực đồng hóa mạnh, bằng nếu không nói là còn hơn người Hán. Hãy xem họ mở rộng về phía Nam thì rõ.

Nhưng đó chỉ là những lý do bề ngoài mà những người bình thường có thể nhận thấy được. 

Thực ra, theo các nhà chuyên môn, đồng hóa dân tộc là một vấn đề khoa học lớn, rất nhạy cảm và vẫn chưa có được một lý thuyết nào đứng vững cả, vì vậy tạm thời không bàn đến lý luận trong bài này. Thông thường đồng hóa dân tộc là một sự tổng hòa gồm:

* Đồng hóa chủng tộc, thường được thực hiện bằng một cuộc chinh phục và kẻ chinh phục hoặc diệt chủng dân bị chinh phục, hoặc xua đuổi dân bị chinh phục để thay thế bằng cư dân của phía chinh phục, hoặc pha loãng huyết thống.

* Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng.

* Đồng hóa về tổ chức cộng đồng, xã hội.

(Về vấn đề Văn Hóa, Ngôn Ngữ, Tín Ngưỡng, đều là những yếu tố bảo tồn dân tộc Việt, xin dành cho bài sau).

Sự đồng hóa dân tộc sẽ khó được thực hiện.

1. Nếu một dân tộc có sức sống sinh học và xã hội mãnh liệt thì sự đồng hóa chủng tộc khó thành công, ví dụ điển hình là dân tộc Do Thái.

2. Đồng hóa về văn hóa, tín ngưỡng phụ thuộc vào trình độ văn minh của dân tộc. Một dân tộc mạnh về chinh chiến, có thể chiến thắng trong cuộc chinh phục, nhưng nếu trình độ văn minh thấp hơn thì sẽ bị kẻ bại trận đồng hóa, điển hình như tộc Hung Nô, Nữ Chân, Mãn Châu… đều chiến thắng người Hán nhưng lại bị Hán hóa.

3. Khi một cộng đồng dân tộc có tổ chức tốt, cố kết các thành viên bền chặt, thì dân tộc đó rất khó bị đồng hóa.

Nhìn lại thì thấy người Việt (người Kinh) có đủ cả ba yếu tố 1,2,3: Người Kinh hiện nay là nơi tập hợp các thành phần ưu tú nhất của Bách Việt, bởi lẽ khi Bách Việt bị Hán hóa, các thành phần ưu tú, tinh hoa trong xã hội Việt là mục tiêu tàn sát của người Hán, do đó các thành phần này phải tháo chạy, và nơi dung nạp họ là mảnh đất cuối trời Bách Việt, tức Việt Nam ngày nayHãy xem thí dụ về ngôn ngữ Ngô Việt còn lưu lại trong tiếng Việt (như đã nói ở trên), đó là một bằng chứng cho sự dịch chuyển của người Ngô-Việt xuống đây. Vì vậy tộc người Kinh có sức sống mãnh liệt.

Tinh hoa của văn minh Bách Việt được cô đọng lại ở người Kinh, chắc chắn không kém nền văn minh Hoa Hạ. 

Người Việt dù không có văn tự riêng (hay có mà bị xóa sạch sau ngàn năm nô lệ) nhưng vẫn phát triển và bảo tồn được ngôn ngữ dân tộc, dù phải mượn Hán Ngữ để ghi chép, thì thật là một kỳ tích, chẳng kém gì người Do Thái vẫn giữ được tiếng Do Thái dù bị diệt chủng và xua đuổi hai ngàn năm.

Tổ chức xã hội của tộc Việt, điển hình là làng xã đã cố kết cộng đồng rất chặt. Tổ chức nhà nước cũng có rất sớm, từ thời Chiến quốc, do đó rất khó phá vỡ, nó tồn tại dấu tích sau khi khi đã độc lập. Hãy nhớ đến Hội Nghị Diên Hồng thời Trần để thấy tinh thần của tổ chức xã hội gắn kết người dân với triều đình chặt chẽ đến mức nào. 

Ngay cả một vương triều thất thế, bị truy đuổi như Triều Mạc, cũng không bán rẻ đất nước cho ngoại bang. Năm 1594, Mạc Ngọc Liễn chiếm giữ Vạn Ninh, trước khi chết để di chúc cho Mạc Kính Cung: “Nay vận khí nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng, đó là số trời, dân ta vô tội mà để phải mắc nợ binh đao, sao lại nỡ thế… Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng bằng”28.

Quân Minh đầu TK 15 cũng khó mà có thể chiếm được Đại Việt làm quận huyện nếu không có những nhóm quý tộc như nhóm Mạc Thúy, vì quyền lợi riêng bán rẻ dân tộc cho người Minh. Nên biết Mạc Thúy là hậu duệ của danh nhân Mạc Đĩnh Chi, một đại thần nhà Trần… Nhà Thanh không thể chiếm Thăng Long nếu không có vua quan bán nước Lê Chiêu Thống, tiếc thay y lại là dòng dõi của anh hùng dân tộc Lê Lợi…

Than ôi! truyền thống thì hào hùng rực rỡ, tổ tiên phải đổ bao mồ hôi, xương máu mới có, nhưng bán rẻ nó đi thì thật dễ dàng. May sao tự ngàn xưa số những kẻ bán rẻ dân tộc như vậy là vô cùng nhỏ trong cộng đồng người Việt.1

(Theo Lịch sử trích Trần Gia Ninh)
CHÚ DẪN

1为什么经历了一千多年的统治,中国始终不能同化越南?“Vì sao đã thống trị Việt Nam hơn ngàn năm mà cuối cùng Trung Quốc vẫn không thể đồng hóa Việt Nam?”. http://bbs.tianya.cn/post-no05-226522-1.shtml

越南人(京族)为何难以同化 “ Người Việt Nam (tộc người Kinh) vì sao mà khó đồng hóa như vây?”  http://lt.cjdby.net/thread-1440161-1-1.html

2 Có học giả Việt đương thời theo tự dạng vội suy đoán rằng viết như vậy có lẽ chỉ tộc người vác rìu đi (chạy) săn và tộc  người trồng lúa trong ruộng. Chứng tỏ thời bấy giờ tộc Việt thuộc văn minh săn bắn và trồng trọt. Có lẽ không phải đơn giản như vậy. Khảo sát lịch sử văn tự thì thấy rằng Việt 越 và Việt粵  âm đọc  giống nhau, “Sử ký” viết là 越, “Hán thư” viết là 粤. Âm đọc 粤 là từ âm đọc của chữ Vu 于, người cổ đọc 越 là于. Vu 于 viết theo lối chữ triện 篆 là 亏, hài thanh là chữ vũ 雨-mưa, viết lên trên thành 雩. Trong “Hán Thư” còn tồn nhiều chữ cổ, nên chữ Việt 越 đều cải viết thành雩, sau theo lối chữ lệ 隶, chữ khải 楷 mới viết thành ra 粤, tức biến hóa hình chữ vũ 雨 đặt trên chữ Vu亏.

3 “路史” 罗泌 (1131—1189) 宋朝 : 越裳, 雒越, 瓯越瓯皑,  且瓯, 西瓯, 供人, 目深, 摧夫, 禽人, 苍梧, 越区, 桂国, 损子, 产里(西双版纳), 海癸, 九菌, 稽余, 北带,仆句, 区吴(句吳), 是谓百越。

#4 http://www.sino-platonic.org/complete/spp176_history_of_yue.html

 The Submerged History of Yuè. By Eric Henry, University of North Carolina

5 史記-司馬遷 (145 – 86 TCN)

6屈原在《离骚: 帝高阳之苗裔兮,朕皇考曰伯庸- Ðế Cao Dương chi miêu duệ hề, Trẫm hoàng khảo viết Bá Dung.

7《史记.楚世家》记载: “封熊绎于楚蛮- phong Hùng Dịch ư Sở Man “, “ 熊渠曰: 我蛮夷也不与中国之号谥- Hùng Cừ nói: Ta là dân man di, không cùng hiệu, thụy của Trung quốc. Hùng Dịch (~1006 TCN) là vua lập ra nước Sở, Hùng Cừ (~877 TCN) là vua Sở về sau. Sở Man là tên nhà Thương, Chu gọi dân Kinh Sở bản địa, Man tức là Man Việt, tên tộc Việt thời nhà Thương.

8 Jerry Norman and Tsu-lin Mei, Monumenta Serica, Vol. 32 (1976), pp.274-301, Published by: Taylor & Francis, Ltd.

9 五岭 Ngũ Lĩnh-dãy núi phía Nam Trung Hoa chạy qua biên giới các tỉnh Quảng Tây, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông, có năm đỉnh cao (Ngũ lĩnh) là 越城 (Việt Thành)、都庞 (Đô Lung), 萌渚 (Manh Chử), 骑田 (Kỵ Điền), 大庾(Đại Dữu).

10 Chữ Lạc có nhiều cách viết, đều đọc là Lạc. Hai chữ  雒,骆 thường dùng như nhau để chép Lạc Việt trong sách cổ. Tiếng Bắc Kinh đọc là Luo, Quảng Đông đọc lok, Đời Đường đọc lak. Nhiều học giả cho rằng nguồn gốc chữ Lạc là do người Hán ghi âm chữ Lúa, Ló của người Việt, người Mường mà ra. Người Việt là tộc người có nền văn minh lúa nước.

11《淮南子·人间训:“(秦皇)又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。Hoài Nam Tử. Nhân gia huấn: (Tần Hoàng) cho quân đào kênh thông đường vận lương, rồi đánh người Việt, giết được vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”.

12《史记·南越列传》赵佗上呈汉文帝的“谢罪书”:“且南方卑湿,蛮夷中间,其东闽越千人众号称王,其西瓯骆裸国亦称王。” Triệu Đà dâng thư tạ tội với Hán Văn Đế: “ đất phương Nam thấp, ẩm ướt. Trong các tộc man di ở đây, (chỉ dám) xưng vương phía Đông với dân Đông Âu vài ngàn khẩu, phía Tây với nước Âu Lạc khỏa thân (ý nói  đóng khố cởi trần).

13《吕氏春秋·孝行览·本味篇》:“和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌。”高诱注:“越骆,国名。菌,竹笋。”  Lã thị Xuân Thu-Hiếu hạnh lãm, bản vị thiên:” Những thứ hoàn mỹ  là gừng Dương Phác, quế Chiêu Diêu, Khuẩn (Măng) Việt Lạc” Cao Dụ chú giải:” Việt Lạc là tên nước, Khuẩn là măng tre”.

14 常璩(347)华阳国志-(卷三蜀志): Thường Cừ, “Hoa Dương Quốc Chí” (quyển 3-Thục Chí): “历夏、商、周,武王伐纣,蜀与焉。其地东接于巴,南接于越,北与秦分,西奄峨嶓。” Trải qua Hạ, Thương, Chu,Vũ Vương phạt Trụ, cùng có nước Thục. Nước đó đông giáp nước Ba, nam giáp nước Việt, bắc phân giới với Tần, Tây dựa Nga Ba” (vì vậy cư dân ở đây có thể là người Khương, Hoa Hạ và Việt-TGN).

#15“华阳国志·蜀志:“周慎王五年秋,秦大夫张仪、司马错、都尉墨等从石牛道伐蜀,蜀王自于葭萌拒之,败绩。王遁走,至武阳为秦军所害,其相、傅及太子退至逢乡,死于白鹿山。开明氏遂亡,凡王蜀十二世 ““Hoa Dương Quốc Chí, thiên Thục Chí”: “Mùa thu đời Chu Thận Vương thứ năm, các Đại Phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô úy Mặc v.v theo đường Thạch Ngưu tiến phạt Thục. Thục Vương thân cùng Gia Mạnh cự địch, bị thất bại. Vương tháo chạy đến Vũ Dương thì bị quân Tần hại, Thái tử thoái lui về và chết tại núi Bạch Lộc. Dòng họ Khai Minh, truyền được 12 đời, đến đây bị diệt”. Vũ Dương nay là huyện Bành Sơn,Tứ Xuyên.

16 叶榆水

17岱依人

18《越史略》卷一载:“周庄王时嘉宁部有异人焉,能以幻术服诸部落,自称碓王,都于文郎,号文郎国。以淳质为俗,结绳为政,传十八世,皆称碓王。越勾践尝遣使来谕,碓王拒之。周末为蜀王子泮所逐而代之。泮筑城于越裳,号安阳王,竟不与周通。” .: Việt sử lược: “thời chu Trang Vương, ở Gia Ninh bộ có người tài, dùng xảo thuật thu phục được các bộ lạc, tự xưng là Đối Vương, đô ở Văn Lang, nước là Văn Lang. Tục lệ thuần hậu, chính sự nghiêm chỉnh, truyền 18 đời, đều xưng là Đối Vương. Việt Vương Câu Tiễn đã từng đến dụ, Vương đều từ chối. Vào cuối đời nhà Chu bị Thục Vương Tử tên là Phán đánh đuổi,  thay thế trị vì. Phán xây thành Việt Thường, hiệu là An Dương Vương, tuyệt giao với nhà Chu”.

19《水经·叶榆水注》中注引《交州外域记》云:“交趾昔未有郡县之时,土地有雒田,其田从潮水上,民垦食其田,因名为雒民。设雒王、雒侯主诸郡县。??后蜀王子将兵三万来讨雒王、雒侯,服诸雒将。蜀王子因称为安阳王。Sách “Thủy Kinh.Diệp Du Thủy chú”, dẫn theo “Giao Châu Ngoại Vực Ký” viết rằng: Giao Chỉ thời chưa có quận huyện, đất đai thì có Lạc điền, nước ruộng lên xuống theo triều, dân làm ruộng sinh sống, nên gọi là Lạc dân. Thiết đặt Lạc Vương, Lạc hầu cai quản các quận huyện. ?? về sau Thục vương tử xua quân tướng ba van đánh Lạc Vương, Lạc Hầu, thu phục các Lạc Tướng. Thục vương tử xưng là An Dương Vương.

20《旧唐书·地理志》则引《南越志》云:“交趾之地,最为膏腴,旧有君长曰雄王,其佐曰雄侯。后蜀王将兵三万讨雄王,灭之。蜀以其子为安阳王,治交趾。Sách “Cựu Đường Thư” dẫn lại “Nam Việt Chí” viết rằng: Đất Giao Chỉ rất mầu mỡ, xưa có vua gọi là Hùng Vương, phò tá là các Hùng Hầu. Về sau ba van quân tướng của Thục vương đánh bại Hùng Vương. Con của Thục Vương xưng là An Dương Vương, cai trị Giao Chỉ.

21 So sánh các sách thì “Giao Châu ngoại vực ký” là cổ nhất, ít nhất là trước đời Ngụy Tấn (TK3), “Nam Việt Chí” soạn sau thời Bắc Ngụy, còn “Việt sử lược” có lẽ soạn thời Hồng Vũ (~1358) nhà Minh sau này. Quân Vương của nước Lạc Việt theo  sách cổ  nhất (“Giao châu ngoại vực ký”) ghi là Lạc Vương 雒王, sách về sau (Việt sử lược, Nam Việt chí) thì ghi là Đối Vương 碓王, Hùng Vương 雄王. Một số học giả Trung Hoa và Quốc tế ngờ rằng ba chữ 碓, 雄, 雒 (bộ thủ “chuy 隹 “) nguyên chỉ là chữ 雒 (Lạc) do mấy trăm năm sau sao chép nhầm phần các chữ ghép (chữ các 各thành chữ thạch 石 hay chữ quăng 厷) mà ra. Tuy nhiên nhiều học giả Viêt Nam không nhất trí, vì cho rằng các nhà Nho Việt Nam ngày xưa đều rất uyên thâm, khó mà lầm lẫn được. Ai cũng có lý cả!

22 Các sách của Việt Nam có nói đến Hùng Vương, An Dương Vương cổ nhất như Lĩnh Nam Chích Quái 嶺南摭怪, Việt Điện U Linh Tập 粵甸幽靈集 hay Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書  thì cũng soạn vào thời Trần, muộn hơn nhiều so với các sách của Trung Hoa như Giao Châu Ngoại Vực Ký 交州外域记, Thái Bình Ngự Lãm 太平御览. Cho nên các sự tích và tên tuổi như Hùng Vương, An Dương Vương… chắc là chép lại từ sách Trung Hoa, vì Việt lúc đó không có chữ viết… Tất nhiên, cũng không loại trừ có những ý kiến khác.

23《交州外域记: “南越王尉佗举众攻安阳王。安阳王有神人皋通,下辅佐,为安阳王治神弩一张,一发杀三百人”: Nam Việt Vương Úy Đà cử binh đánh An Dương Vương. An Dương Vương có thần nhân Cao Thông xuống phù tá, chế ra nỏ thần cho An Dương Vương, một phát giết được ba trăm mạng”.

24《太平御览》卷348:《日南傳》曰:一發萬人死,三發殺三萬人。佗退,遣太子始降安陽。安陽不知通神人,遇無道理,通去。始有姿容端美,安陽王女眉珠悅其貌而通之。始與珠入庫盜鋸截神弩,亡歸報佗。佗出其非意。安陽王弩折兵挫,浮海奔竄: “Thái Bình Ngự Lãm, quyển 348 dẫn “Nhật Nam Truyện” viết:.. một phát giết vạn người, ba phát giết ba vạn người. Đà lui, sai thái tử Thủy hàng An Dương. An Dương không biết Thông là thần nhân, thấy (vua) không hiểu đạo lý, Cao Thông bèn bỏ đi. Thủy có tư dung đoan mỹ, con gái An Dương Vương là Mỵ Châu vì thích y đẹp mà xiêu lòng. Thủy sai Châu vào kho cưa đứt nỏ thần rồi về nước báo tin. Đà liền xuất kỳ bất ý (tiến đánh). An Dương Vương nỏ gãy binh tan, trốn chạy ra biển. (Thái Bình Ngự Lãm là sách soạn vào thời Bắc Tống (977 -984), trích dẫn “Nhật Nam Truyện” thì chắc là còn cũ hơn. “Nhật Nam Truyện” hình như đã thất truyền, chỉ thấy trích dẫn lại ở sách này-TGN).

25 Người viết bài này đã đến thăm và khảo sát khá kỹ Bảo Tàng Nam Việt Vương ở Quảng Châu. Bảo tàng xây trên khu lăng mộ của Triệu Mô, vua kế vị Triệu Đà (Thủy chết sớm, Mô là con Thủy thay). Ngôi mộ được phát hiện năm 1983, hầu như còn nguyên vẹn, đồ tạo tác rất kỳ vĩ, tinh xảo chứng tỏ trình độ văn minh của người Việt lúc đó khá cao, nếu không nói là hơn hẳn người Hán. Xem bảo tàng thấy các cổ vật trưng bày như thạp đồng, trống đồng, vũ khí… giống in và còn phong phú hơn nhiều so với Bảo Tàng Lịch Sử quốc gia Việt Nam giai đoạn lịch sử đó.

#26 Lữ Gia, Thừa tướng nắm quyền hành của nước Nam Việt, chống lại nhà Hán,  thua trận bị chém chết. Lữ Gia và người ở Quận Cửu Chân (Thanh Hóa ngày nay), lăng mộ và đền thờ hiện còn ở Ân Thi, Hưng Yên

27Nguyễn Hải Hoành: Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1.000 năm Bắc thuộc? – http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/#sthash.0FZriY2F.dpuf.

28 Đại Việt sử ký toàn thư – NXB VHTT năm 2000, tập 3, trang 294.


* Người viết bài này xin bày tỏ lời cảm ơn nhà Hán học, dịch giả Trần Đình Hiến về những thảo luận, góp ý quý giá cho phần dịch các đoạn trích trong các sách sử cổ viết bằng văn ngôn trên đây.

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...