Hiển thị các bài đăng có nhãn Đền thờ khắp nơi. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đền thờ khắp nơi. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 4 tháng 9, 2017

Đền thờ Kinh Dương Vương

 Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương - Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh Đồng bằng sông Hồng

Hàng năm, cứ mỗi độ tết đến xuân về, hàng ngàn vạn “con Hồng cháu Lạc” từ khắp mọi miền lại tìm về khu di tích Đền thờ và Lăng mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành – Bắc Ninh để tri ân và thờ phụng những bậc thủy tổ dân tộc đã có công khai mở đất nước.

Á Lữ là một làng cổ nằm sát bờ Nam sông Đuống, nơi duy nhất có lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Lăng Kinh Dương Vương nằm ở trên bãi bồi cao rộng thoáng sát bờ Nam sông Đuống và sầm uất bởi rừng cây cổ thụ bao quanh. Trước kia, hai ngôi đền cổ ở phía Tây làng Á Lữ thờ phụng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ (Đền Thượng thờ Kinh Dương Vương, đền Hạ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ), có quy mô kiến trúc to lớn, chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý” lộng lẫy. Về phía Đông lăng Kinh Dương Vương xưa còn có một ngôi chùa có tên chữ là “Đông Linh Bát Nhã tự” thờ các đức “Thánh mẫu thủy tổ” là Vụ Tiên, Thần Long và Âu Cơ.

Ông Biện Xuân Phẩm (65 tuổi), người trông nom Đền thờ Kinh Dương Vương cho biết “Năm 1949-1952, giặc Pháp kéo đến thôn Á Lữ, đóng đồn bốt ở đây, phá hoại đền, đình chùa, dân làng đã kịp cất giữ một số đồ thờ tự cổ quý như: ngai, kiệu, sắc phong… của đền và đình. Đến năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ đã tôn tạo khu Lăng mộ Kinh Dương Vương. Năm 2000, một ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ được phục dựng theo kiểu thức truyền thống”.

Trải qua bước thăng trầm của thời gian, hiện nay khu quần thể Lăng và Đền Kinh Dương Vương còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội. Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam ), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam )… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại khác nhau.

Trưởng Thôn Á Lữ Biện Xuân Sáng cho biết: Hiểu được giá trị của di tích văn hóa Khu quần thể Lăng và Đền Kinh Dương Vương, người dân trong thôn đã tích cực tham gia công tác bảo vệ di tích và hàng năm làm tốt công tác chuẩn bị cho Lễ hội để đón du khách thập phương về dâng hương, tưởng nhớ.

Để lo việc đình đám, ngay từ trong năm làng phân công việc cho quan đám và các giáp. Vào hội, ngay từ ngày 12 tháng Giêng, đền và đình được mở cửa để bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt. Đến ngày 16, làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình đền để tế lễ quanh năm. Ngày 17, làng tổ chức rước kiệu từ đình xuống đền Thượng và đền Hạ để xin rước các bậc thủy tổ dân tộc về đình để tế lễ và mở hội. Từ ngày 18 đến 24, mỗi ngày một tuần tế. Lễ vật có lợn cả con, bánh trưng, bánh dày. Đến ngày 25, tế giã đám tại đền Thượng và đền Hạ bằng cá gỏi.

Nói về giá trị văn hóa của Di tích lịch sử Quốc gia Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương - Trưởng phòng Văn hóa thể thao huyện Thuận Thành Lê Xuân Bắc cho biết: Quần thể di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương là một trong những điểm du lịch văn hóa tâm linh tiêu biểu, hàng năm thu hút hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước hướng về cội nguồn. Đây là một quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia có giá trị văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Hiện di tích còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Khu di tích nằm trong không gian thoáng rộng nhưng khá hiu quạnh, nên việc khai thác các giá trị văn hóa lịch sử gắn với quần thể di tích chưa được quan tâm đúng tầm. Đặc biệt, khu di tích chưa gắn kết với hệ thống các di tích lịch sử và các điểm tham quan du lịch khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, được coi là quê hương của đền, chùa, miếu mạo. Do đó, việc quy hoạch và lập dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích rất cần thiết.

Ông Nguyễn Văn Phong – Giám đốc Sở Văn hóa – thể thao và du lịch Bắc Ninh cho biết: Năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương và công bố quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia này với tổng mức đầu tư hơn 491 tỷ đồng.

Dự án chia làm 4 hạng mục xây dựng chính gồm: Không gian bảo tồn di tích, tập trung tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương, sân đền, vườn khu lăng mộ; không gian giá trị di tích gồm: Tượng đài thủy tổ, quảng trường văn hóa lễ hội, nhà trưng bày văn hóa... và các dịch vụ phụ trợ để phát triển du lịch văn hóa tâm linh, thu hút du khách và hạ tầng kỹ thuật, san nền, đường giao thông, đường điện... Theo đó, từ nay đến năm 2019, dự án sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động./

PhuthoPortal (Nguồn Website ĐCSVN)

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Đền Mẫu Thượng Soài Sơn - Sài Sơn Linh Từ - LẠNG SƠN


Đền Mẫu Thượng Soài Sơn - Sài Sơn Linh Từ柴 山 灵 祠
Ngõ 1 đường Ngô Thì Sỹ, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn
Đền thờ Mẫu, được xây dựng trên triền đá đầu dãy núi Nhị Tam Thanh đã từ lâu, rất linh thiêng. Trên quả núi này có nhiều cây lớn như đa, gạo um tùm, cổ kính, soi bóng xuống đền bóng râm mát, tôn nghiêm.
Chuyện kể rằng đã lâu lắm rồi, có tảng đá lớn trên sườn núi lở xuống, trên đá có chữ Nho, đại ý rằng nơi đây Mẫu đã từng đặt chân đến trong những cuộc du ngoạn của mình. Vì vậy, nhân dân trong khu phố Pò Soài - Nà Pắp đã lập đền thờ Mẫu ngay cạnh tảng đá lớn, mới đầu chỉ là ba gian miếu nhỏ, lâu dần trùng tu, tôn tạo thành đền như ngày nay, chữ gọi là Sài Sơn Linh Từ, tục gọi là đền Mẫu Thượng Soài Sơn.
Ở đây, đặt ra hai vấn đề (mà ngay cả ban trị sự hiện nay cũng đang mơ hồ) cần làm rõ:
Hoặc Mẫu Thượng Soài Sơn là Mẫu Thượng Ngàn được thờ trên núi Soài;
Hoặc Mẫu Thượng Soài Sơn nghĩa là Mẫu đã từng lên núi Soài;



Đền Mẫu Thượng Soài Sơn

Nếu Mẫu Thượng Soài Sơn có nghĩa là Mẫu đã từng lên núi Soài thì phù hợp với truyền thuyết về Liễu Hạnh Công Chúa[1], có chi tiết Mẫu Liễu Hạnh lên vùng biên giới Xứ Lạng. Chuyện kể rằng, sau khi được vua cha (Ngọc Hoàng) phong làm Liễu Hạnh Công Chúa, nàng lại xuống trần lần thứ hai. Vì còn nặng tình duyên, nàng trở lại thăm nom bố mẹ, khuyên bảo chồng là Đào Lang tu chí học hành. Đến khi cha mẹ chồng qua đời, con cái lớn khôn, không còn vướng víu gì, nàng mới đi chu du thiên hạ, gia ân, gia oán, dừng chân ở những nơi núi non danh thắng. Đến Lạng Sơn, thấy bên núi có ngôi chùa phong cảnh hữu tình với những rặng thông xanh cao vút, những khóm nhược lan tươi đẹp nhưng lại bị cỏ lấp dấu chân, bia phủ rêu xanh, tượng Phật bụi mờ ít người qua lại vãn cảnh, Liễu Hạnh không vui. Nàng ngồi tựa gốc cây thông gẩy đàn, cất tiếng hát, ca ngợi thú sơn lâm và đón đợi Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, khi ông vừa đi sứ bên Trung Quốc về. Mượn chuyện văn thơ, đối đáp chữ nghĩa, nàng đã nhắc khéo ông Trạng Nguyên cho tu bổ lại ngôi chùa đẹp nhưng bị bỏ hoang nơi vùng biên ải này. Ngay sau cuộc hội ngộ, Phùng Khắc Khoan liền gọi các phụ lão ở nơi sơn trang đó, giao cho một khoản tiền để tu sửa lại ngôi chùa và đề một câu thơ ở hành lang bên tả rồi ra đi. Câu thơ ấy là: “Tùng lâm tịch mịch phất nhân gia”, nghĩa là rừng rậm yên tĩnh có nhà Phật. Tuy nhiên, cho đến nay, người ta không biết địa danh chính xác của ngôi chùa đó là ở đâu.
Nhưng tôi cho rằng, rất có thể đó chính là Đền Mẫu Thượng Soài Sơn. Vì mấy lý do:
Thứ nhất, Đền Mẫu Đồng Đăng lúc đó là trung tâm tôn giáo - tâm linh của nhân dân vùng Đồng Đăng - Nam Quan, lúc đó nằm giữa một khu vực sầm uất, nên hương khói thường xuyên, không ngớt, không có chuyện cỏ xanh lấp lối, lá vàng rụng rơi được.
Thứ hai, Khu vực Bắc Lệ lúc đó là thuộc đất Bắc Giang, Xứ Lạng chỉ bắt đầu từ Đồng Bành, Chi Lăng trở lên trên, nên Đền Bắc Lệ lúc ấy chưa được kể vào đất Lạng Sơn.
Thứ ba, Đền Mẫu Thượng Soài Sơn có phong cảnh, hình thế rất giống miêu tả trong truyền thuyết kể trên. Đồng thời, tên Đền có thể hiểu là Mẫu đã từng lên núi Soài chơi.
Nếu như vậy, từ sau đó, ngôi chùa được đổi tên thành Đền Mẫu Thượng Soài Sơn và thờ chính là Mẫu Liễu Hạnh.
Đền Mẫu Thượng Soài Sơn cũng có thể hiểu là thờ chính Mẫu Thượng Ngàn - hóa thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Ở đây lại có hai truyền thuyết khác biệt về Mẫu Thượng Ngàn, mà có lẽ Mẫu Thượng Soài Sơn là trường hợp thứ hai.
Trường hợp thứ nhất cho rằng Mẫu Thượng Ngàn xuất thân là con gái của Hùng Định Vương (đời Hùng Vương thứ 9) và An Nương Hoàng Hậu, tên là Mỵ Nương[2] Quế Hoa, được thờ chính ở Đền Suối Mỡ - Bắc Giang.
Trường hợp thứ hai có liên quan đến Đền Bắc Lệ - Hữu Lũng, cho rằng Mẫu Thượng Ngàn là Công chúa La Bình, con của Tản Viên Sơn Thánh và Mỵ Nương, tức là cháu ngoại của Hùng Duệ Vương (đời Hùng Vương thứ 18). Do có công giúp đỡ nhân dân cuộc sống yên ổn ấm no nên được Ngọc Hoàng phong là Thượng Ngàn Công Chúa, cho cai quản 81 cửa rừng cõi Nam Giao. Như vậy, việc Mẫu Thượng Ngàn xuất thân là Công chúa La Bình, được thờ ở Đền Bắc Lệ - Hữu Lũng, sau đó là ở Đền Mẫu Thượng Soài Sơn - thành phố Lạng Sơn là có nhiều khả năng hơn so với Mỵ Nương Quế Hoa.



Ban công đồng Đền Mẫu Thượng Soài Sơn

Trong tên gọi của đền, chữ Soài có nguồn gốc tiếng Tày, trong địa danh Pò Soài, nghĩa là ngọn đồi thoai thoải. Nhưng trong tiếng Hán, không có chữ Pò, chữ Soài, nên khi dịch tên Đền ra tiếng Hán phải gọi chệch đi thành Sài Sơn, tức là núi Sài.
Đền được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, ngày nay bao gồm cung chính 3 gian, gian giữa là ban công đồng, trên cùng là Phật bà Quan Âm, rồi đến Đức Vua Cha, Mẫu Thượng Ngàn, Tứ phủ Chầu Bà, Tứ phủ Ông Hoàng; gian bên phải là Đức ông Trần Triều; gian bên trái là cung Sơn Trang. Lên trên núi phía sau cung chính là ban thờ và tượng Phật bà Quan Âm.
Trước cửa đền có đôi câu đối:
一 品 柴 山 龍 虎 伏
三 清 特 地 顯 靈 祠
Nhất phẩm Sài sơn long hổ phục
Tam Thanh đặc địa hiển linh từ



Những cây cổ thụ sân đền (nhìn từ trên núi, nơi có tượng Quan Âm Bồ Tát)

Nếu các bạn tham quan khu danh thắng Nhị - Tam Thanh, ngoài việc vào Động Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo, ngắm di họa của Ngô Thì Sỹ, vãn cảnh Chùa Tam Thanh, xem phù điêu Phật A Di Đà, hãy bảo người ta dẫn lên Đền Mẫu Thượng Soài Sơn lễ Mẫu, ngắm cảnh nước non Lạng Sơn tươi đẹp nhé.

Đền cửa Đông - Lạng sơn


Lạng Sơn - mảnh đất địa linh, nhân kiệt với những trầm tích văn hóa theo suốt chiều dài lịch sử nước Việt, với những ngôi đền thiêng ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc của tiền nhân để lại. Trong đó có bốn ngôi đền nằm ở bốn hướng trấn giữ và bảo vệ Đoàn Thành (thành cổ Lạng Sơn xưa), được mệnh danh là “Xứ Lạng tứ trấn”.

Đền Cửa Đông - trấn Đông thành Lạng Sơn.


Theo các tư liệu lịch sử, thành cổ Lạng Sơn (Đoàn Thành) xưa có bốn cổng chính ở bốn hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Tương ứng với bốn cổng này có bốn ngôi đền linh thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ bảo vệ tòa thành bao gồm: đền Cửa Đông (Đông Môn từ); đền cửa Tây (Tây Môn từ); đền cửa Nam (Nam Môn Từ) và đền cửa Bắc (Bắc Môn Từ) được xây dựng khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Các đền đều tọa lạc tại phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn và hướng ra dòng sông Kỳ Cùng.


Ngôi đền thiêng thờ thần sông

Trấn Đông - đền Bạch Đế là một trong bốn ngôi đền thiêng trấn giữ quanh Thành cổ Lạng Sơn, thờ thần Bạch Đế. Thần Bạch Đế hay còn gọi là Quan lớn Thoải phủ, Quan lớn Đệ Tam - người có công giúp vua Hùng Duệ Vương đánh tan giặc xâm lăng, được sắc phong “Bạch Long Hầu Chi Thần”, “Hộ quốc an dân”. Việc thờ phụng này vừa thỏa mãn tín ngưỡng thờ Mẫu (mẫu Thoải) vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

Theo sách Đại Nam Nhất Thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn chép: “Đền Bạch Đế nằm ở phía Đông thành Lạng Sơn. Địa phận xã Mai Pha thuộc Châu Ôn, thờ Thủy Thần”. Theo các nhà nghiên cứu nhận định và căn cứ vào một số tài liệu ghi chép về đền, cho rằng Đền được xây dựng muộn nhất là vào khoảng giữa thế kỷ XVIII.



Đối tượng thờ chính của Đền là thần Bạch Đế (tức là thờ thủy thần, thần sông, thần rắn), đó là đặc trưng của cư dân nông nghiệp gieo trồng lúa nước thờ tự theo mô típ “ông Cộc – ông Dài” thần sông nước như trong các truyền thuyết của Việt Nam.

Đền là một di tích tôn giáo - tín ngưỡng được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh, cửa chính đền quay hướng chính Đông nhìn ra sông Kỳ Cùng, cổng vào Đền quay mặt hướng chính Tây, trên bức tường sau Đền ở phía tây có trang trí và đắp hai chữ đại tự lớn “Đông Môn”, cổng Đền liền kề ngay đó về phía tay phải. Cấu trúc Đền gồm 3 phần liền nhau: Nghi môn – Chính điện – Tả hữu vu.

Đỉnh cao kiến trúc nghệ thuật

Trải qua thời gian dài với nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay, đền vẫn bảo tồn được kiểu kiến trúc nghệ thuật truyền thống và nhiều di vật, cổ vật có giá trị như: 32 pho tượng thánh, 4 hoành phi, 6 đôi câu đối, 2 chuông đại, 2 đôi lọ lộc bình, cây đa cổ thụ 400 năm tuổi…

Vào năm 2013, Đền Cửa Đông được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia. Nói cụ thể hơn thì Đền Cửa Đông là loại hình kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo có lịch sử lâu đời trên quê hương xứ Lạng. Ngày nay, ngoài thờ thần sông “Bạch Đế”, đền còn là nơi thờ Mẫu và Đức Thánh Trần. Đây là địa chỉ sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của nhân dân và là địa điểm du lịch tâm lịch thu hút du khách gần xa.

https://baophapluat.vn/tu-tran-xu-lang-bai-1-tran-dong-den-cua-dong-tho-than-bach-de-post353425.html

Đền cửa Bắc - Lạng Sơn


Là một trong tứ trấn có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Đoàn Thành (thành cổ Lạng Sơn xưa), đền Cửa Bắc nằm ở phía bắc thành cổ, vuông góc giữa 2 trục đường Trần Hưng Đạo - Cửa Bắc của thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ 18 và được xếp hạng di tích Quốc gia năm 2013.





Đền Cửa Bắc nằm trong tứ trấn xứ Lạng có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí Thành cổ Lạng Sơn.


Theo các tư liệu lịch sử, thành cổ Lạng Sơn (Đoàn Thành) xưa có bốn cổng chính ở bốn hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Tương ứng với bốn cổng này có bốn ngôi đền linh thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ bảo vệ tòa thành bao gồm: đền Cửa Đông (Đông Môn từ); đền cửa Tây (Tây Môn từ); đền cửa Nam (Nam Môn Từ) và đền cửa Bắc (Bắc Môn Từ).

Các ngôi đền này đều được xây dựng khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Các đền đều tọa lạc tại phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn và hướng ra dòng sông Kỳ Cùng.

Cũng như các ngôi đền thiêng trong tứ trấn, đền Cửa Bắc thờ vọng Đức Thánh Trần (Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) và thờ Mẫu (Mẫu Liễu), Phật (ngài Thiên Thủ Thiên Nhãn). Ngôi đền này đặc trưng cho sự phối thờ tiền Thánh hậu Phật có ở nhiều đền, chùa cổ nước ta.



Kiến trúc của Đền hình chữ Nhị (=) gồm gian Đại Bái (chính điện) ở bên ngoài, gian Hậu Cung ở phía trong. Theo tư liệu “Xã chí Lạng Sơn”. trước đây Đền có nhiều hiện vật quý gồm: 1 tấm bia đá ghi công đức thời Khải Định (1924), 06 tượng thánh bằng gỗ sơn son thếp vàng, 2 nhang án, lỗ bộ, 1 bát nhang cổ bằng sứ, 1 bát nhang đỏ. Hiện nay, tại Đền vẫn còn lưu giữ tấm bia ghi công đức (năm 1924) và có thêm các tượng, đồ thờ tự, ngai (thờ bóng), điện thờ…

Qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, đền Cửa Bắc xưa đã xuống cấp và được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, nay khang trang, đẹp đẽ hơn hơn nhưng vẫn giữ được nét đơn sơ, mộc mạc, cổ kính và linh thiêng.


Cùng với các đền: Cửa Đông, Cửa Tây, Cửa Nam, đền Cửa Bắc có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Thành cổ Lạng Sơn xưa. Nay, đền Cửa Bắc là một địa điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh để người dân địa phương và du khách gần xa chiêm bái, vãng cảnh.

Đền Tả Phủ - Lạng Sơn


Đền Tả Phủ nằm ở trung tâm phố chợ Kỳ Lừa thuộc phường Hoàng Văn Thụ được xây từ năm Chính Hòa thứ 4 (1683) thờ Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài và được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1993.




Hán quận công Thân Công Tài là người xã Như Thiết, huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang, nay là thôn Như Thiết, xã Hồng Thái huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Xuất thân trong một dòng họ quý tộc có học, nhiều đời làm quan. Ông được trọng dụng, bổ nhiệm lên Lạng Sơn làm Phó tướng nhận chức Đô đốc Đồng tri giúp việc trấn giữ biên thùy. Trong những năm làm quan ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo phòng thủ đoàn thành, giữ gìn biên ải, Thân Công Tài đã nhận thấy tầm quan trọng cũng như vị trí thuận lợi trong việc mở mang thương trường giao lưu buôn bán của Lạng Sơn và chính ông là người khởi xướng trong công cuộc này.

Nhân dân ở đây vẫn truyền tụng rằng, ông là người có công san đồi, bạt đất mở mang thành 7 con đường và lập nên 7 phường cho phố chợ Kỳ Lừa, tạo cho trấn lỵ Lạng Sơn một khu buôn bán phồn vinh, tấp nập, giúp cho dân chúng trao đổi hàng hóa thông thương xuôi ngược và qua lại biên giới. Nhờ đó mà 1 vùng đồi gò hoang vu rậm rạp, dân cư thưa thớt ở mạn Bắc Đoàn thành đã nhanh chóng trở thành 1 điểm quần cư của nhiều dân tộc, 1 cửa ngõ buôn bán sầm uất thu hút cả thương nhân ngoại quốc vào kinh doanh. Và cũng nhờ đó mà người đời sau được biết đến phố chợ Kỳ Lừa, một địa danh mà sau này trở nên nổi tiếng ở vùng ải bắc.

Lịch sử lưu danh truyền hậu thế

Thương trường khai thị Hán Quận Công

Có nghĩa là: Lịch sử lưu danh truyền muôn thủa

Mở chợ gây dựng thương trường là Hán quận công.

Hán Quận Công Thân Công Tài đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của cha ông từ bao đời nay, đó là: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Việc ông mở ra phố chợ Kỳ Lừa của trấn lị Lạng Sơn đã chứng tỏ một tầm nhìn chiến lược về kinh tế, từng bước biến thị trấn biên ải xa xôi trở thành nơi đô thị buôn bán giao lưu hàng hóa nhộn nhịp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Ngày nay tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nên sự thịnh vượng để yên dân nơi phên dậu của Tổ quốc.

Đền Tả Phủ có cửa chính quay về hướng Tây, nằm trên thế đất cao tạo nên vẻ uy nghi, linh thiêng với kiến trúc gồm 2 tòa, kết cấu theo lối chữ Công. Nối liền giữa hai tòa là một khoảng sân nhỏ có tấm bia đá tạo dựng năm Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (năm 1683); bia có tiêu đề “Tôn sư phụ bi” (bia ghi việc tôn thờ người làm thầy, làm cha), ghi tạc công lao của Thân Công Tài với Lạng Sơn và việc mở mang thương trường buôn bán tại đây.

Ngoài ý nghĩa lịch sử về lưu niệm danh nhân lịch sử Thân Công Tài, nơi đây còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Du khách thập phương nhớ đến xứ Lạng không thể không nhớ đến một lễ hội xuân lớn ngay giữa chợ Kỳ Lừa, đó là lễ hội đền Tả Phủ - Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng hàng năm. Một lễ hội có quy mô lớn được nhân dân các dân tộc thành phố Lạng Sơn và du khách gần xa thành kính dâng hương tưởng nhớ Hán Quận Công Thân Công Tài và cầu cho “Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, kinh doanh buôn bán phát lộc, phát tài”.


Lễ hội tại Đền Tả Phủ

Trải qua thời gian, đến nay di tích đền Tả Phủ đã xuống cấp. Được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2019 Ban quản lý Đền triển khai phương án tôn tạo ngôi đền bằng hình thức xã hội hóa. Đây là hoạt động hết sức có ý nghĩa đối với cán bộ và nhân dân trên địa bàn phường cũng như du khách thập phương, với mong muốn giá trị của ngôi đền luôn được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.

Để hoàn thành việc trùng tu di tích, Ban quản lý đền mong muốn nhận được sự phát tâm ủng hộ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, doanh nhân, các tổ chức, cá nhân bằng tình cảm cao đẹp của mình chung tay, góp sức, ủng hộ vật chất, kinh phí, tư liệu lịch sử để góp phần hoàn thành việc tôn tạo đền.

Đền cửa Tây

(PLVN) - Tọa lạc ở phía tây Thành cổ Lạng Sơn, nay là đường Trần Hưng Đạo (quốc lộ 1A cũ Lạng Sơn - Hà Nội) của thành phố Lạng Sơn, đền Cửa Tây là một trong 4 ngôi đền trấn giữ Đoàn Thành và là nơi thờ vọng Đức Thánh Trần ở xứ Lạng. Di tích lịch sử này đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2013.

Di tích đền Cửa Tây.Di tích đền Cửa Tây.

Đền Cửa Tây có tên chữ là Ngũ Nhạc Linh từ, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII. Ngôi đền thiêng nằm bên cửa sông Kỳ Cùng thơ mộng, cũng như 3 ngôi đền được mệnh "tứ trấn" xứ Lạng, đền Cửa Tây với tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu (mẫu Thoải - nữ thần sông nước phù hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa). Ngoài ra đây còn là nơi thờ vọng Đức Thánh Trần -vị tướng tài đời Trần được nhân dân phong Thánh, người ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông và các tướng nhà Trần. 

Theo truyền thuyết dân gian, mẫu thoải phủ là con gái út của Bát Hải Long Vương, rẽ nước biển lên trần dạo chơi. Nhưng ngày kia vua cha cho đóng cửa biển nàng công chúa thủy phủ này không còn đường về thủy cung nên đã ở trên trần lịch kiếp tu nhân tích đức từ cô bé thoải dần trưởng thành xinh đẹp được phong là công chúa thủy phủ rồi đức hạnh ngày càng cao nên được mệnh danh là Mẫu Thủy Phủ - mẹ của người dân miền sông nước. 

Vì đức độ vì thương yêu con dân nên bà được tôn phong là Đệ Tam Thánh Mẫu trong đức thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước, giúp nghĩa quân đánh thắng giặc trên đường thủy. Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa. Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để làm gió yên, mưa tạnh. Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái.

Lạng Sơn tứ trấn – Trấn Tây thờ vọng đức Thánh Trần ảnh 1
Đền Cửa Tây.  

Tại đền Cửa Tây, tòa thứ nhất là điện thờ các vị Thánh Mẫu với bàn thờ trang trọng, linh thiêng. Tòa thứ hai thờ Trần Hưng Đạo kiến trúc theo kiểu chữ Đinh thờ Đức Thánh Trần và các vị tướng tài như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu cùng các Hoàng tử và Công chúa.

Hiện nay trong đền vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: Hoành phi, câu đối, hệ thống tượng thờ, chuông… Ngoài ra, Đền còn có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu. 

Đền Cửa Tây ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, còn là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân địa phương cũng như khách thập phương. Lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Vào ngày này, các gia đình, các Tổ liên gia trên địa bàn bày biện, sắm sửa các mâm lễ dâng lên đền để cầu cho Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.

Đền Cửa Tây cùng với “Tứ trấn” và Thành cổ Lạng Sơn xứng đáng là một điểm di tích lịch sử văn hóa hứa hẹn du khách phương xa khi đặt chân đến thăm xứ Lạng không thể không đến nơi này.

Người dân thường đến cầu Đức Thánh Trần về đường công danh sự nghiệp. Nếu có dịp đến thăm đền bạn sẽ thấy bên ngoài có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu.

Đền Kỳ Cùng - Lạng Sơn

 Đền Kỳ Cùng Lạng Sơn

Đền Kỳ Cùng thờ ai : ông Cộc - ông Dài, hai vị thần sông gắn với truyền thuyết quan lớn Tuần Tranh. Đền có tiếng linh thiêng, nhiều lần được các triều vua Lê - Nguyễn ban sắc phong.


Lịch sử đền Kỳ Cùng Lạng Sơn

Theo tư liệu địa phương, ngôi đền này đã có từ rất lâu nhưng sử sách không ghi rõ năm xây dựng, chỉ biết ban đầu là một ngôi đền nhỏ dựng bằng đất lợp ngói, thờ thần Giao Long (vị thần sông nước) cai quản toàn vùng, phù hộ cho mưa thuận gió hòa.

- Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn chép về đền Kỳ Cùng như sau : ở bên tả sông Kỳ Cùng thuộc xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, có con giao long thành thần đào hang ở đây, đền rất thiêng, nhiều lần được phong tặng. Khi sứ bộ qua đây, trước sửa lễ cáo yết, sau mới sang đò.

Về sau, việc thờ thần Giao Long được thay bằng thờ quan Tuần Tranh, bởi trong tâm thức người dân xứ Lạng, sự tích đền Kỳ Cùng gắn với truyền thuyết rằng: quan Tuần Tranh là con vua Bát Hải Động đình, giáng trần dưới thời Hùng Định Vương. Ông được nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, chỉ huy đánh giặc nhưng bị thua, quân lính thiệt mạng nhiều, ông lại bị vu cáo về tội dâm ô nên đã nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn để chứng minh trong sạch.

- Cảm thấu nỗi oan và tấm lòng của quan Tuần Tranh, thần linh đã hóa phép linh hồn ông thành hai vị thần là ông Cộc - ông Dài ngự tại Đền để cai quản sông nước. Nỗi oan của quan Tuần Tranh về sau cũng đã được tả đô đốc Thân Công Tài (vị tướng nhà Lê) hóa giải trong sạch.

- Tướng Thân Công Tài là một nhân vật lịch sử có công lao lớn với nhân dân Lạng Sơn nói riêng, và là một danh nhân lịch sử văn hóa tiêu biểu của dân tộc ở thời nửa sau thế kỷ 17. Sau khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập Đền Tả Phủ để thờ tự, tưởng nhớ công ơn.

Đến năm 1993, di tích đền Kỳ Cùng ở Lạng Sơn đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.


Kiến trúc đền Kỳ Cùng Lạng Sơn

Trải qua các giai đoạn lịch sử, kiến trúc đền ngày nay là sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, gồm 3 cửa vòm cuốn với 2 trụ gạch vuông, bên trên được đắp nổi các hoa văn, trên cùng là bộ tam khí gồm đỉnh và lọ hoa thờ hai bên.

- Mặt ngoài đền có kiến trúc gạch tháp chồng diêm mang tính chất gác chuông. Bên trong đền vẫn còn lưu giữ được các hoành phi, đại tự có niên đại từ thời Lê - Nguyễn cùng nhiều đồ thờ tự như: chuông, ngai, tán, lọng, đỉnh đồng và các pho tượng cổ có giá trị niên đại và mỹ thuật cao.

- Hiện nay, phía bên trái ban thờ quan lớn Tuần Tranh có thêm gian thờ Mẫu Phật Quan âm; phía trước là ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Ngoài ra, sân đền còn có bến đá, là 1 trong 8 cảnh đẹp của Lạng Sơn ghi trong “Trấn doanh bát cảnh”, được danh nhân Ngô Thì Sĩ gọi là Kỳ Cùng thạch độ.


Lễ hội đền Kỳ Cùng - Tả Phủ

Đây là lễ hội lớn nhất Lạng Sơn, được tổ chức long trọng hằng năm để tri ân công đức với các bậc tiền nhân, vào tạo không khí tươi vui phấn khởi đầu xuân. Lễ hội diễn ra vào giờ Ngọ ngày 22 tháng Giêng, bắt đầu với lễ rước kiệu ông Tuần Tranh lên tạ nghĩa với ông Thân Công Tài ở Đền Tả Phủ. Đến giờ Ngọ ngày 27 tháng Giêng, nhân dân địa phương lại làm lễ tiễn biệt, rước kiệu ông Tuần Tranh trở lại đền Kỳ Cùng.

- Lễ rước kiệu diễn ra sôi động với cả đoàn người trang phục lộng lẫy cùng đủ loại cờ quạt, võng lọng... Phần hội còn có nhiều trò vui dân gian như: đốt đầu pháo, cờ người, kéo co, múa rồng, múa sư tử, hát sli, hát lượn... thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương về dự.


* Địa chỉ đền Kỳ Cùng ở đâu : nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng và ở ngay đầu cầu Kỳ Lừa, thuộc phường Vĩnh Trại, gần ngay trung tâm thành phố Lạng Sơn.
Đền Kỳ Cùng - khuôn viên rợp bóng cây
Đền Kỳ Cùng - khuôn viên rợp bóng cây
Đền Kỳ Cùng - bến đá bên sông
Đền Kỳ Cùng - bến đá bên sông
Đền Kỳ Cùng - lễ hội thu hút đông người
Đền Kỳ Cùng - lễ hội thu hút đông người

Đền Ngọc Lâm Bắc Giang

Đền Ngọc Lâm thờ Thánh Thiên Công Chúa nằm ở thôn Ngọc Lâm – xã Tân Mỹ – thành phố Bắc Giang – tỉnh Bắc Giang.

Cổng đền Ngọc Lâm

Vào thế kỉ đầu sau công nguyên. Năm 0040. Thánh Thiên công chúa là con ông nguyễn Khuyến cư chú tại chùa Dân sinh, Chí Linh lúc bấy giờ thuộc chấn Kinh Bắc. Lúc bấy giờ thánh Thiên công chúa đã cùng cậu ruột dấy binh. Xưng là Nam thành vương phất cờ khởi xướng tại vùng quê An Dũng (nay là huyên Yên Dũng), sau đó ứng nghĩa với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng quê ở Châu Phong. Vào một đêm Thánh thiên ngự tại chùa Ngọc Nham tại xóm phố Ngọc Lâm bây giờ (Đất chùa nay vẫn còn ở đó không ai ở).

Đại bản doanh chiêu mô quân sĩ. Có một đội quân hùng tráng (Năm 0040 sau công nguyên) là nơi thắng địa bèn lập đại bản doanh, chiêu mộ quân sĩ. Có đội quân hùng tráng đã được Trưng nữ vương phong tướng. Phát huy lòng yêu nước dẹp tan quân Tô Định bạo tàn, dẹp yên biên thành.

Ba năm sau (0043) nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang đánh nước ta. Hai bà Trưng tuẫn tiết trên sông Hát Giang.Thánh Thiên công chúa từ hợp phố nạm Cao Bằng về đại bản doanh đánh tan quân Mã Viện, xương chất thành đống. (Nay còn gọi là bãi Hán), máu chảy thành sông. Ngày nay vẫn còn nguyên trận chiến là 7 khúc sông.Khi đánh tan quân giặc.Thánh Thiên công chúa thấy thế của mình, lường được lực giặc. Thánh Thiên công chúa trên mình ngựa cân đai trên mình tuấn mã phi nước đại hướng dòng sông tuẫn tiết nơi Bến Ngọc.

Bến Ngọc đó có một tảng đá to lạ thường tại đây.Mù nước cạn vẫn còn nguyên hình chiến trường xưa thời Mã viện chôn xá quân thù.

Hai ngàn năm qua. Cách mạng tháng tám thành công ngày 23 thánh 11 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị số 69 chỉ thị cho toàn Đảng toàn dân tộc. Bảo tồn di tích trên toàn cõi Việt Nam.

Vâng lời Bác Hồ dạy năm 1991 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học tại Ngọc Lâm đã thành công tốt đẹp.


Điện thờ đền Ngọc Lâm

Sở văn hóa tỉnh Hà Bắc giao nhiệm vụ cho cơ quan Bảo Tàng tỉnh phối hợp với tư liệu của viện sử học, viện hán nôm. Đã thiết lập hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử đền thơ Ngọc Lâm thờ Thánh Thiên công chúa như quyết định đã nêu trên.


Lễ hội đền Ngọc Lâm

Đền Từ Mận

Toạ lạc bên bờ Bắc dòng sông Thương cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng hơn 2km là một ngôi đền cổ kính, nhân dân vẫn gọi là đền Từ Mận, thuộc xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. Ngôi đền thờ Ngọc Khanh công chúa và chồng là Phạm Đức Hóa-con trai vị khai quốc công thần Phạm Văn Liêu, đã có nhiều công lao theo Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn gây dựng phong trào kháng chiến chống quân Minh ngay từ những ngày đầu. Hiện ở Xuân Hương còn lưu giữ được nhiều tư liệu thành văn nói về công trạng của Ngọc Khanh công chúa.

Trong gia phả chữ Hán, văn bản thứ 5 mục ghi dịch, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Văn Lạng dịch: “Lê triều Thánh Tông thuần hoàng đế có con gái thứ tám là Thiều Dương Thiên Cực, Thái Trưởng công chúa Lê Thị Ngọc Khanh dự đánh giặc Liễu Thăng về đến đất Xuân Mãn (Xuân Hương) thì mất vào giờ tý ngày 22 tháng 2 được cấp ruộng thế nghiệp để trông nom giữ gìn tổ mộ, từ đường, lăng miếu. Trước đây con gái thứ tám của nhà vua thu binh đánh giặc Liễu Thăng vâng lệnh vua sai đến xứ Nghệ An và các trấn, lộ cùng các tùy tòng và các tướng uy danh lừng lẫy, binh giáp tinh nhuệ, tiến đánh giặc thù, chém tướng giặc vang danh hiển hách.... .giúp nước yên dân, ổn định xã tắc, được hưởng việc thờ phụng theo nghi thức nhà nước. Niên hiệu triều Lê Hiền Tông thứ nhất sắc tặng gia ban đệ bát công chúa Lê Thị Ngọc Khanh là Tối Linh Đại Vương”....Theo nguồn tư liệu chính sử của nhà nước phong kiến, những sắc chỉ, lệnh chỉ triều Lê hiện còn lưu giữ ở Xuân Hương đã chứng tỏ công chúa Thiều Dương (Lê Thị Ngọc Khanh) là nhân vật lịch sử có nhiều công lao với dân với nước, cuộc đời bà đã gắn bó sâu sắc ân sâu nghĩa nặng với nhân dân Xuân Hương. Bà được nhân dân tôn thờ, được nhà nước các triều đại Lê-Nguyễn ghi chép vào sự tích, ban sắc phong làm Thành Hoàng làng để nhân dân đời đời thờ phụng.

Đền từ mận


Đền Từ Mận là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, nơi tôn thờ người có công với dân với nước. Di tích là nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương. Hội lệ hàng năm tổ chức ngày 19/4 âm lịch với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện khát vọng tự do và tín ngưỡng nông nghiệp của nhân dân địa phương như: Đấu vật, đánh cờ, chọi gà, đánh đu, kéo co, hát quan họ, thi thả diều…Ngôi đền còn nằm trong quần thể di tích tôn thờ những nhân vật lịch sử thời Lê gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh trên đất Bắc Giang. Đó là đền thờ và khu mộ danh nhân văn hoá Phạm Văn Liêu-vị khai quốc công thần dưới triều Lê. Đình Cây Mai nơi thờ Phạm Đức Hoá là con trai Phạm Văn Liêu, phò mã dưới triều Lê, chồng của Ngọc Khanh công chúa. Đây là những di tích lịch sử văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng bảo vệ. Đền Từ Mận cùng những điểm di tích nói trên tạo nên một quần thể di tích cổ kính phản ánh về truyền thống lịch sử đấu tranh yêu nước của dân tộc trên quê hương Bắc Giang.Đền Từ Mận nằm soi bóng bên dòng sông Thương, nơi đây thuyền bè qua lại nhiều, đã một thời tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền từ nhiều nơi qua lại. Quần thể di tích rộng đẹp, khuôn viên di tích cổ kính hơn bởi các cây cổ thụ xanh tươi tỏa bóng mát.Theo truyền lại ngôi đền xưa được xây dựng bề thế gồm nhiều hạng mục công trình với tổng thể 49 gian toạ lạc bên dòng sông Thương. Kháng chiến chống thực dân Pháp đền đã bị hư hỏng nhiều và theo thời gian đến nay các cấu kiện kiến trúc cổ cũng không còn bảo lưu được. Dấu tích của ngôi đền cổ còn thể hiện ở các tài liệu, hiện vật trong đền, như ngai thờ, bài vị, sắc phong, lệnh chỉ, sắc chỉ, kiệu thờ và nhiều đồ thờ tự khác từ thời Lê thế kỷ XVII-XVIII… Vết tích nền móng, các viên gạch, ngói cổ và các cây cổ thụ trong di tích cho biết dấu hiệu của một ngôi đền cổ. Đền Từ Mận hiện nayđã được tu sửa lại qua nhiều giai đoạn. Quần thể di tích gồm các hạng mục công trình cổng đền, khuôn viên sân vườn và khu nội tự đền chính. Bố cục tổng thể đền chính theo kiểu chữ đinh gồm toà tiền tế ba gian hai chái nối toà hậu cung hai gian. Phần liên kết vì mái toà tiền tế theo kiểu vì giá chiêng kẻ chuyền, xà cộc và vì mái kiểu cốn mê. Các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc nhưng còn đượm màu thời gian cổ kính. Liên kết vì mái tòa hậu cung theo kiểu vì kèo trốn trụ, các cấu kiện không chạm khắc. Trong hậu cung bài trí hương án, trên đặt ngai thờ, bài vị và tượng Ngọc Khanh công chúa cùng các thị nữ hầu cận. Đôi câu đối treo ở đền nói rõ về ân đức của người được thờ:Con gái đế vương, tấm lòng trinh liệt, thành phúc thần là chuyện cũĐất ấy mây núi mưa sông, nhận chiếu vua ban, truyền lại đền thiêng.Trong đền còn bảo lưu được nhiều tài liệu, hiện vật có giá trị khẳng định bề dầy lịch sử và giá trị của di tích như bộ kiệu bát cống thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII, ngai thờ, bài vị, tượng thờ, bát hương cổ thế kỷ XIX, sắc phong năm Tự Đức thứ 33 (1880) và các tư liệu lịch sử, văn bản Hán Nôm có giá trị nghiên cứu khoa học.

Đồng Ngọc Dưỡng


https://langgiang.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/vkMGMBzMVR85/content/le-hoi-en-tu-man

ĐỀN XƯƠNG GIANG

 Địa điểm chiến thắng Xương Giang được Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch công nhận di tích cấp Quốc gia năm 2009. Năm 2012 UBND tỉnh Bắc Giang đã đầu tư kinh phí xây dựng khu di tích Đền Xương Giang và đến nay dự án xây dựng cơ bản hoàn thành đón nhân dân và du khách thập phương đến chiêm bái, hành lễ. Theo các tư liệu lịch sử để lại, sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh cho xây đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng thủ, trong đó có Thành Xương Giang. Thành được xây dựng từ năm 1407. Thành Xương Giang khi đó trở thành thành lũy kiên cố nhất của Giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm từ Quảng Tây Trung Quốc nối với Đông Quan (Hà Nội ngày nay).


Cổng chính Khu di tích lịch sử chiến thắng Xương Giang. Ảnh: Hà Yến
Các dấu tích và sử sách ghi chép cho thấy Thành Xương Giang nằm trên 1 gò đồi thấp, được đắp bằng đất, có sông nhỏ và các thửa ruộng trũng bao quanh. Thành có hình chữ nhật, chiều dài theo hướng Đông Tây là 600m chiều rộng theo hướng Bắc Nam là 450m, tổng diện tích là 27ha; Bốn góc thành có 4 vọng lâu lớn, đặt các loại súng thần cơ lớn nhỏ. Cửa chính thành trông về phía Tây. Trong thành được phân chia thành các khu vực rõ ràng: dinh thự, doanh trại, kho lương, kho đạn…
Để xây Thành quân nhà Minh bắt hầu hết người dân từ 16 đến 60 tuổi ở khắp vùng Lạng Giang đều phải đến đây lao dịch, đào hào, khoét đồi lấy đất đắp thành. Biết bao dân phu đã phải chôn mình trong quá trình xây dựng Thành hiện lên chất ngất. Qua nhiều lần khai quật khảo cổ học có tìm thấy dấu tích của thóc gạo cháy thành than. Cùng với đó là những hòn đá kê bằng đá vôi, đá muối, gạch ngói gốm sành sứ có hoa văn từ thời Lý Trần. Hiện nay các hiện vật vẫn còn được lưu giữ và trưng bầy tại bảo tàng tỉnh Bắc Giang.
Trước đây Thành Xương Giang có 1 ngôi đền cổ nằm ở phía Tây Bắc trong thành, nhưng cho đến những năm 1970-1980 ngôi đền đã bị đổ nát. Sau này người dân địa phương có dựng lại 1 ngôi đền nhỏ khoảng 6m2 trên nền đất cũ. Nhưng hiện nay do ngôi đền nằm ở vị trí không đắc địa, phải đi qua đường sắt và diện tích ngôi đền nhỏ nên dấu tích không đáng kể.
Với mục đích tôn thờ, ca ngợi đức cao tổ hoàng đế Lê Lợi và vinh danh những vị hiền thần đã có công trong chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang. Sau nhiều đợt khảo sát và qua nghiên cứu các di chỉ khảo cổ học địa điểm chiến thắng Thành Xương Giang, UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt quyết định xây dựng ngôi Đền Xương Giang tại địa điểm hiện nay. Theo đó, tổng diện tích khu di tích địa điểm chiến thắng Thành Xương Giang là 10 ha. Tất cả các hạng mục công trình tính từ ngoài vào trong theo trục dọc đăng đối, cân xứng, trong khuôn viên cây xanh thoáng mát, đẹp đẽ bao gồm: Cổng tam quan; Nghi môn, bình phong; Tả vu, hữu vu; Lầu chuông, lầu trống; Sân chính; Tòa tiền tế, tòa thiêu hương, Tòa chính cung
Ngôi đền tọa Đông Nam hướng Tây Bắc. Phía trước ngôi đền là cổng tam quan với 3 lối đi chính rồi đến nghi môn và bình phong. Nghi môn được xây dựng theo lối tứ trụ kình thiên, uy nghi trầm mặc giữa đất trời. Nghi môn được khắc câu đối với dòng chữ quốc ngữ, có lẽ đây chính là điểm đặc biệt của ngôi đền, Bởi lẽ ngôi đền thờ vị vua anh hùng áo vải nên khi thiết kế công trình, các nhà khoa học, sử học đã quyết định tất cả các câu đối trong đền đều được viết bằng chữ quốc ngữ để nhân dân có thể hiểu được. Và để phục vụ dân chúng dù người già trẻ, lành lặn hay khiếm khuyết cũng có thể tới thăm đền, 2 bên phải và trái có lối đi dành riêng cho người khuyết tật.
Phía bên trái sân là tả vu và lầu chuông, phía bên phải sân là hữu vu và lầu trống. Qua nghi môn là sân hội lớn lát đá vuông. Nơi ấy tụ nhiều nhân khí, thịnh vượng. Người xưa có câu tụ nhân như tụ thủy. Đền Xương Giang phía lưng gối đầu vào một gò đồi cao, xa xa là núi ông Trạng làng Kế. Như vậy có thể nói Đền Xương Giang có thế cục: đầu gối sơn, chân đạp thủy.
Hệ thống cây xanh trong đền được chú trọng, ngoài tác dụng tạo cảnh quan, bóng mát, giúp công trình hòa quện với thiên nhiên còn làm tĩnh tại tâm hồn người hành hương, truyền tải ý nghĩa về mặt tâm linh.
Tấm bảng tự Đền Xương Giang được giáp hoàn toàn bằng vàng. Khi màn đêm buông xuống 3 chữ vàng nổi lên trên nền đỏ rực rỡ cả một vùng.
Lầu chuông, lầu trống là sự thể hiện cho hào khí Xương Giang đời đời bất diệt. Tả vu, hữu vu là tượng trưng cho bá quan văn võ về chầu vào các dịp thiết triều. Ba tòa đền chính được thiết kế theo hình chữ Vương, tả vu, hữu vu theo lối chữ nhất. Lầu chuông, lầu trống theo lối ngoại vi, nội vi, công trình nghi môn theo lối bộ chấm hỏa và hai hồ nước hai bên tượng trưng cho chữ thủy. Vì vậy Đền Xương Giang hội đủ năm hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Tòa Tiền tế
Khu vực tòa Tiền Tế là nơi vào các dịp lễ, ngày tế, ngày hội, quan viên ban tế nhà đền là lễ tế các anh hùng nghĩa sĩ của Nghĩa quân Lam Sơn.
Gian giữa là hương án ban công đồng, nơi thắp hương các vị thổ công, thành hoàng, anh hùng nghĩa sĩ chung cho cả khu vực bản đền.
Tòa Tiền tế là công trình kiến trúc kết hợp giữa đá và gỗ hài hòa, ăn khớp với nhau. Hệ thống cột hiên được tạo tác bằng đá xanh, trạm khắc rồng mây uốn lượn mềm dẻo mà vẫn uy nghi.
Bên trong 2 phía 2 gian có 1 con ngựa trắng và trống, 1 con ngựa hồng và giá chiêng. Mỗi dịp tế thần trống và chiêng được dùng làm lễ tế thánh và các anh hùng Nghĩa sĩ Lam Sơn.
Đền Xương Giang còn lưu giữ những Di vật vô cùng quý giá được lấy về từ đền Lam Kinh - Kinh đô đầu tiên của nhà Lê sau khi thống nhất đất nước lập ra nhà nước Đại Việt, đó là 1 viên gạch từ thế kỷ 15 hiện được đặt trong tòa đền chính. Đất long mạch tại đền Lam Kinh được trải dưới nền đất thổ ngôi đền. Nước lấy từ giếng ngọc được đổ vào 2 giếng mắt rồng đền Xương Giang và chân hương từ đền Lam Kinh thờ vua Lê Lợi. Như lời chấp thuận của Đức Cao tổ Hoàng Đế Lê Lợi cho nhân dân tỉnh Bắc Giang được thờ phụng ngài.
Tòa Thiêu Hương
Tất cả kiến trúc tòa Thiêu Hương được làm bằng gỗ lim. Hệ thống xà ngang, xà dọc được chạm khắc hoa văn rồng mây, hoa lá theo phong cách thời Lê, thanh thoát, khỏe khắn.
Nơi đây có đặt 1 đỉnh đồng cỡ lớn mang ý nghĩa thần khí linh thông, tượng trưng cho sự uy nghiêm của nơi thờ tự. Vào ngày lễ, nhà đền đốt hương trầm để hương thơm lan tỏa tạo nên không gian linh thiêng, thuần khiết. Đỉnh đồng được đặt trên chiếu đá, chiếu đá được chạm hoa văn tinh xảo, phía dưới có lỗ thông âm dương hòa hợp.
Mặt trước của Đỉnh Đồng có khắc 3 di sản văn hóa của miền đất Bắc Giang: Cây dã hương nghìn năm tuổi ở huyện Lạng Giang, Chùa Vĩnh Nghiêm cổ tự và Mộc bản Kinh phật – di sản ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cũng từ nơi này khách hành hương đi theo các hướng có thể tới thăm những địa danh có các di sản của miền đất Bắc Giang.
Mặt sau của Đỉnh Đồng khắc lên toàn cảnh Lễ hội Xương Giang ngày hội toàn thắng của quân và dân Đại Việt sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc. Lễ hội Xương Giang là một trong những điểm nhấn quan trọng của quần thể di tích chiến thắng thành Xương Giang.
Nơi tòa Thiêu Hương chính là ranh giới ấn định địa phận của người trần với địa phận thờ các anh linh anh hùng nghĩa sĩ. Người xưa có câu: “ linh hồn người thường tồn tại hàng ngàn năm, nhưng anh linh của các vị anh hùng có công với đất nước tồn tại hàng vạn năm”. Vì vậy cửa chính cung ngày thường không mở, tòa thiêu hương là chỗ dừng chân trước cung cấm. Nhưng trong dịp lễ hội đầu xuân, khách dâng hương có thể tự do chiêm bái Đền Xương Giang
Tòa Chính Cung
Tòa Chính cung có 3 gian thờ chính. Ban thờ Hoàng đế Lê Lợi đặt ở giữa gian. Tại ban thờ này là tượng Hoàng đế Lê Lợi đúc bằng đồng ở tư thế ngồi, tượng được đặt trên bệ đá. Tượng Hoàng đế Lê Lợi được đúc theo cơ sở mẫu tượng thờ vua Lê ở nhà Thái Miếu nhà Lê tại TP Thanh Hóa. Dáng tượng uy nghiêm lẫm liệt của 1 vị tướng mà vẫn nhân từ đức đạo của 1 đấng quân vương.
Tiếp theo là hai gian ban thờ chia hai bên tả, hữu gian giữa. Ban thờ thờ 17 vị tướng lĩnh tham gia trực tiếp vào trận đánh Xương Giang năm 1427 và 17 vị tướng không đúc tượng đồng mà lập bài vị để thờ.
Kế đó là ban thờ tiền quân và hậu quân Nghĩa quân Lam Sơn trong trận quyết chiến năm 1427. Ban thờ này có tính chất công đồng liệt vị, tưởng niệm tri ân các nghĩa sĩ Lam Sơn đã hy sinh vì đất nước.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, Chiến thắng Xương Giang được ghi danh với những chiến công oanh liệt. Nơi đây đã diễn ra trận công thành của Nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt hàng vạn quân Minh. Thực hiện chủ chương “vây thành diệt viện”, từ cuối năm 1426 Nghĩa quân Lam Sơn đã cho vây hãm thành, quyết tâm hạ thành trước khi viện binh của địch kéo sang. Nghĩa quân Lam Sơn đã cho đào hầm từ ngoài vào trong rồi tiến hành nội công ngoại kích. Sau hơn 9 tháng chiến đấu, thành Xương Giang đã bị hạ. Chiến thắng Xương Giang là điển hình của nghệ thuật quân sự “lấy ít thắng nhiều, lấy yếu đánh mạnh”. Là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và ý chí quyết thắng của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Xương Giang là niềm tự hào của quân và dân cả nước, góp phần chấm dứt 20 năm đô hộ của nhà Minh đối với Đại Việt. Mở ra những trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước vinh quang của dân tộc ta. Cũng từ chiến thắng ấy Vua Lê Lợi lập nên 1 triều đại mới, triều đại hậu Lê, đổi tên đất nước Đại Việt.
Với mùa xuân năm này, đã qua 590 năm nhưng khí thế chiến thắng Xương Giang như còn mãi vang dậy. Người dân Xương Giang từ nay tự hào hơn khi truyền thống cha ông được bao lớp thế hệ mai sau tiếp nối. Tiếng trống sấm mừng năm mới, mừng chiến công thắng trận năm xưa đã điểm. Đó cũng là tiếng trống khai hội chiến thắng Xương Giang. Tiếng ca, tiếng hát người ơi người ở đừng về vang khắp đó đây chén rượu mừng xuân Đinh Dậu.
Lễ hội Xương Giang được tổ chức hằng năm vào các ngày 6, 7 tháng giêng với quy mô lớn, nhiều địa phương tham gia, hình thức khai hội cũng được thay đổi theo từng năm. Qua lễ hội Xương Giang, lịch sử truyền thống hào hùng của cha ông thuở trước sẽ được khơi dậy và phát huy tốt đẹp trong lớp lớp con cháu mai sau./. 

 Minh Trang

Đi Lễ Đền Cô Bé Chí Mìu – Bắc Giang

Đã từ lâu, Đền Cô Bé Chí Mìu thuộc bản Chí Mìu, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang (Bắc Giang) được đồn rất bởi sự linh thiêng. Sự linh thiêng được tương truyền rằng, cứ vào lúc 12 giờ đêm, cô Bé Chí Mìu sẽ giáng về đền chứng lễ và ban phúc, lộc, đặc biệt là đêm 30, rạng mùng 1.

Đền Cô Chí Mìu là một ngôi đền mang nhiều huyền bí và linh thiêng nên khách thập phương về đây lễ rất đông. Cô bé Chí Mìu chính là Cô Bé Thượng Ngàn, do đền Cô bé Thượng Ngàn nằm ở bản Chí Mìu nên mọi người đều gọi cô theo tên địa danh của đền là Cô Bé Chí Mìu.

Cô bé Thượng Ngàn rất ít là chủ đền, nhưng các đền mà cô là chủ đền đều rất linh thiêng. Nổi tiếng nhất là đền Cô bé Thượng Ngàn Lạng Sơn, Đền Cô bé Thượng Ngàn Chí Mìu.

Còn các ngôi đền khác các cô bé thường đươc thờ ở cung cô bé. Các cô bé này được coi là cô bé bản đền, luôn hầu cận Thánh Mẫu hoặc các Thánh Chầu tại bản đền các cô ngự.

Lịch sử đền:

Trước năm 1995, đền Cô chỉ là một cái miếu nhỏ có một bát hương và chưa được phối thờ thêm ngôi vị của một vị thánh nào. Năm 1995, có người mới dâng tượng cô vào miếu. (Hiện ngôi tượng này vẫn đang được thờ tại cung Cô Bé Thượng Ngàn của ngôi đền).

Cho đến 2010, ngôi miếu được gỡ bỏ để chuyển linh sang ngôi đền mới như bây giờ. Cung cô Chí Mìu hiện tại chính là vị trí của ngôi miếu cũ ngày xưa. Ngôi đền mới xây dựng đã được phối thờ các cung: Cung công đồng, Cung Sơn Trang, cung Trần Triều và cung Cấm thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.

Đường đi đến Đền: Nếu đi từ Hà Nội, chúng ta đi theo đường Quốc Lộ 1A (Tuyển đường Hà Nội – Lạng Sơn) qua thị trấn Kép khoảng 4 km đến ngã tư Cầu Đen. Qua ngã tư Cầu Đen rẽ bên phải đi thêm khoảng 2 km nữa là đến Đền Cô Chí Mìu. Đến Kép hỏi đền Cô thì ai cũng biết cả. Đường từ ngã tư Cầu Đen vào bản đền nay đã được địa phương xây dựng lại. Nên tuy nhỏ, những đã không còn gồ ghề và khó đi như trước. Xe đến bản đền có thể vào thẳng bãi gửi xe ngay gần sân đền. Từ Ngã tư Cầu Đen tới bản đền các bạn sẽ gặp Nhà máy Xi Măng Bắc Giang. Vì nơi đây sản xuất xi măng nên đường khá bụi. Các bạn đi xe máy nên đeo khẩu trang dày để tránh bụi bẩn nhé!

Bên ngoài đền: Ban Quản lý Nhà Đền Cô Chí Mìu không thu vé gửi xe ô tô, không thu tiền cung, tiền đền với các cung hầu. Đền cũng khá văn minh: Không cho các dịch vụ xóc thẻ, lấy thẻ có đất phát triển. Tại đây bạn sẽ bắt gặp các dịch vụ thường thấy giống ở cồng đền chùa khác như: Phục vụ đồ ăn: Khoai Nướng, Trứng nướng ….. Có dịch vụ viết sớ do nhà đền quản lý nhưng để gia chủ trả tiền viết sớ trên cơ sở tùy tâm.

Sân đền: 

Mặt trước đền Cô Bé Chí Mìu
Mặt trước đền Cô Bé Chí Mìu

Khoảng sân nhỏ mặt trước đền có cung thờ lầu cô, lầu cậu và ban Mẫu Cửu Trùng Thiên.

  • Ban Mẫu Cửu Trùng Thiên: Đối diện mặt trước đền.
  • Lầu Cậu: Ngự phía bên tay trái mặt trước đền.
  • Lầu Cô: Ngự phía bên tay phải mặt trước đền.

Bài trí bên trong Đền Cô Chí Mìu:

Cung Cô Bé Thượng Ngàn
Cung Cô Bé Thượng Ngàn

Cung ngoài: Là Cung Công Đồng nhưng chỉ phối thờ tượng Quan Hoàng Bơ, Quan Hoàng Bảy, Quan Hoàng Mười trong Tứ Phủ Quan Hoàng.

Cung giữa: là Cung Cô Bé Thượng Ngàn (tức Cô Bé Chí Mìu). Cung của cô có ngôi tượng nhỏ của Cô có từ năm 1995. Bên trái cung của Cô là cung Trần Triều, Còn bên phải cung của Cô là Cung Sơn Trang.

Cung Cấm: Thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.

Hiện trong đền còn lưu những bức ảnh kể về những câu chuyện tâm linh thể hiện sự linh thiêng của cô như : Ngày động thổ ngôi đền vào tháng 5 năm 2010, có một con bướm rất to về ngự tại bàn thờ lễ động thổ hay những lần cô bé hiện hồn.

Hình ảnh được cho là cô bé hiện thân vào ngày sửa lễ động thổ tháng 5 năm 2010
Hình ảnh được cho là cô bé hiện thân vào ngày sửa lễ động thổ tháng 5 năm 2010
Hình ảnh được cho là Cô bé Thượng Ngàn hiện hồn
Hình ảnh được cho là Cô bé Thượng Ngàn hiện hồn

Để việc đi lễ, xin lộc cô được đắc lộc, đắc tài. Mời các bạn tham khảo bài văn khấn tứ phủ công đồng sau:

Khu vực hoá Vàng: Ở phía tay phải đền.

Lưu ý: 

Thông thường vào đêm 30 hàng tháng có đến hàng ngàn người đổ về đây ăn chực nằm chờ để chờ 12 giờ đêm cô về chứng lễ. Do ngày trước, đây là nơi dân đề đóm thường về hầu đêm vì phải hầu giấu do bị cấm để xin cô cho trúng đề, trúng lô. Có lẽ vì thế tạo nên một truyền thuyết cô về hiển linh vào 12h đêm là thế. Vi đông người chen lấn lẫn nhau nên nhà đền khuyên rằng vào các ngày đó khi vào đền không nên mang ví, điện thoại…để tránh bọn móc túi lợi dụng.

LINK: 

https://gianganh.net/co-be-chi-miu-bac-giang-2495.html

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...