Thứ Năm, 3 tháng 1, 2019

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

 Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ 

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam hoặc Đệ Tam Vương Quan, ngài là Quan lớn con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha rất mực yêu quý giao cho cai quản miền Thoải phủ và hầu cận kề bên vua cha. Trong dân gian vẫn thường ca tụng về sự anh linh và sức mạnh cũng như tài phép của Quan Lớn Đệ Tam Thoải phủ như:

Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông

Hay nói về tài phép của Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ thì văn dâng ngài có đoạn:

“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Quan Lớn Đệ Tam là ai ?

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam. Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Khi Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Sự tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Căn cứ tài liệu “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” đang được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang thì huyền tích về Quan lớn Đệ tam tóm tắt như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, nhưng không có con. Một đêm, vợ ông là bà Trần Thị Ngoạn đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái mồ côi đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Vài năm sau, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Từ hôm đó nàng Quý mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

“Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian”

Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.

Bấy giờ Thục Phán có ý định cướp ngôi vua Hùng Duệ Vương. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc đánh vào kinh đô. Duệ Vương bèn lập đàn cầu đảo. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, quân Thục đều bị tiêu diệt. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. 

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7.

Nhưng lại có truyền thuyết khác kể lại thì Quan Lớn Đệ Tam trong một trận đánh, ông đã thác trận, xác phàm của ông bị chém làm đôi rồi ném trôi sông, phần đầu trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng (phường Lam Sơn, Thành phố Hưng Yên), dân làng đã lập đền thờ tưởng nhớ ông ở đây. Còn phần thân dạt vào ven sông thuộc thôn Yên Lạc (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), cũng được dân làng nơi đây chôn cất và lập đền thờ tưởng nhớ, đó là đền Lảnh Giang.

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

>>> Xem thêm: Cộng đồng Thoải Phủ

 

Hầu giá Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu.

Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ loan giá ngự đồng

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ được lập ở Lạng Sơn, Hưng Yên, Lảnh Giang Linh Từ (Nam Hà) và các cửa sông. Đền ngài còn ở Thái Bình ngay đằng sau đền Đồng Bằng phía QL 10 đi Hải Phòng.

Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Bản văn Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Trịnh giang biên giành ngân lai láng

Đôi vầng hồng soi rạng nam minh

Con vua thủy quốc Động Đình

Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng

Dọc:

Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc

Bẩm sinh thành tư chất long nhan

Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan

Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

 

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ

Trấn nam minh quy đủ bốn phương

Ra uy chấp chính kỉ cương

Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

 

Chốn long giai cầm quyền thay chúa

Phép màu quan tối tú tối linh

Lệnh truyền thủy bộ chư dinh

Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

 

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang

Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la  

Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình

Chốn ấy là chốn thủy cung

Phú:

Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan

Đệ tử con tiến văn đàn

Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử

 

Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2)

Người con vua thoải quốc động đình

Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử

 

Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao

Bẩm dung y diện mạo hồng hào

Ngôn trung chính tài cao quán cổ

Thơ:

Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng

Xông pha trăm trận dạ như không

Ra tay cứu nước trừ nguy biến

Tiếng để ngàn thu với núi sông

Xá lửng:

Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích

Đưa quân chèo du lịch bốn phương

Có phen tuần thú sông Thương

Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu

 

Có phen ngự sông Dâu sông Hát

Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi

Có phen vào lạch ra khơi

Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa

 

Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc

Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi

Dạo xem phong cảnh mọi nơi

Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người

 

Có phen chơi cửa đài cửa bích

Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi

Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi

Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về

 

Trải giang khê lên ngàn xuống bể

Lảnh Giang từ quý địa danh lam

Đền thờ quan tam tía kiệu vàng

Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi

 

Hóa tức thì lâu đài điện các

Dâng nước về thủy quốc một khi

Có phen lấy ngọc lưu ly

Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang

 

Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả

Kéo quân về đóng ngã ba Tranh

Xướng ca đàn hát tập tành

Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời

 

Có phen lại về nơi thủy phủ

Đóng cân đai áo mũ vào tâu

Dăm ba đồng tử theo hầu

Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương

 

Cũng có khi phi thường biến hóa

Qua Nghệ An thượng hạ đại giang

Thuyền rồng chèo quế buồm lan

Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu

 

Có phen ngự Nam lâu Bắc điện

Trở ra về đến huyện Thiên Tôn

Dạo miền thác cái thác con

Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ

 

Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo

Truyền chư quân đôi đạo tiên phong

Chuông kêu cờ phất trống dong

Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh

 

Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi

Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn

Triều thần văn vũ bách quan

Sai lên đón rước vương quan về chầu

 

Trên các lầu thơ ngâm phú đọc

Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên

Vua cha giá ngự ngai vàng

Phán đòi thái tử vương quan vào chầu

 

Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ

Sai ông lên cứu trợ trần gian

Một tay thái tử vương quan

Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều

 

Nay ông đã về chầu nhân đức

Độ nhân gian vạn ức siêu sinh

Nay ông về chốn thủy đình

Cuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

 

Khánh tiệc Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Ngày 24 tháng 6 là ngày chính tiệc Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

 

Văn khấn Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

(Nội dung tham khảo)

Nam mô A di đà phật !
Nam mô A di đà phật !
Nam mô A di đà phật !
Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu
Kính lạy: Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, cộng đồng các quan.
Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật
Tín chủ con là ………..
Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Tam cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Tam cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Quan Hoàng Bơ Thoải

Quan Hoàng Bơ Thoải hay còn gọi là Ông Bơ Thoải là vị thánh hoàng thứ ba trong hàng Thập vị Quan Hoàng của hệ thống Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ của người Việt. Ngài thường ngự dưới Thoải Cung, được vua cha giao quyền trông coi Đền Vàng Thủy Phủ.

Quan Hoàng Bơ là ai ?

Quan Hoàng Bơ là con trai thứ ba vua  Bát Hải Động Đình, ngài thường ngự dưới Thoải Cung, trông coi Đền Vàng Thủy Phủ. Sự tích về Quan Hoàng Bơ Thoải vẫn còn lưu truyền rằng, ngài thường hiện lên thành vị Hoàng Tử dung mạo hơn người, cưỡi cá chép vàng biến trên mặt nước. Đôi khi, ngài lại biến hiện để ngao du thiên hạ, cùng các bạn tiên uống rượu, đánh cờ,… hưởng thử các thú vui của bậc cao nhân. Theo những điển tích còn truyền miệng, ngài là người em thân cận của Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, khi rảnh rỗi ngài thường rong chơi khắp chốn trên thuyền rồng. Nhưng thấy cảnh dân chúng còn nghèo khổ lầm than, ông đã nhận lệnh Vua Cha lên làm khâm sai cõi phàm trần, mở hội Phúc Duyên, giáng phúc cho dân buôn bán làm ăn thuận buồm xuôi gió, người có học đỗ đạt thành tài, xã hội bình an yên ấm. Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.

Quan Hoàng Bơ Thoải

 

>>> Xem thêm:

Sự tích Quan Hoàng Bơ

Sự tích Quan Hoàng Bơ kể rằng, ngài là thái tử con vua Nam Tống, mang tên húy là Tống Khắc Bính. Sau khi triều đại nhà Nam Tống bị diệt vong bởi nhà Bắc Tống, ngài đã dong thuyền ra biển Đông sau đó thác hóa tại đây. Di quan của Ngài trôi đến cửa Cờn tại Quỳnh Lưu, Nghệ An và được ông Hoàng Chín lúc bấy giờ đang tu ở đó vớt lên chôn cất. Sau khi ông Hoàng Chín quy hóa, nhân dân đã phối hương linh vị Quan Hoàng Bơ, QuanHoàng Chín cùng Tứ vị Vua Bà thờ chung tại đền Cờn. Tuy nhiên về thần tích này cũng cần được xem xét lại do ngày nay, Trung tâm Nghiên cứu Tiềm Năng Con người xác định đền Cờn là nơi thờ Quan Hoàng Chín chứ không phải là thờ Quan Hoàng Bơ.

Một dị bản khác ghi chép rằng, Thái Bà nằm mộng thấy một người con gái mặc xiêm y trắng, tay ôm đứa bé trai tuấn tú kháu khỉnh tới và nói vì cảm tạ tấm lòng từ bi công đức của bà, sẽ cho Hoàng Thái tử Long cung đầu thai làm con để báo hiếu và lập công cho đất nước. Quả đúng như vậy, sau giấc đó Thái Bà sinh hạ một bé trai khôi ngô nhanh nhẹn, mắt sáng tinh anh, bèn đặt tên là Trần Minh Đức. Giống như lời chiêm bao khi xưa, cậu bé tám tháng đã biết nói, chín tháng biết đi, năm tuổi đã đọc thông sách vở. Đến năm hai hai tuổi, Minh Đức đã ngày đêm nghiên cứu Phật Pháp tại thảo am, không màng hôn nhân phu phụ. Sau khi cha mẹ về tiên, thì ông cũng đi đâu không ai hay biết. Ngôi đền và thảo am cũng dần nhang lạnh khói tàn. Rồi một đêm, dân làng ai ai cũng đều mơ thấy có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú, đầu đội kim khôi, mình mặc áo trắng lưng giắt kiếm bạc, cưỡi trên đôi bạch xà. Người báo mộng rằng mình là Hoàng Tử Long Cung, giáng sinh xuống trần làm con Thái Ông Thái Bà nay đã hết hạn phải về Thủy Cung. Hoàng Tử nói khi dân gặp nạn ắt sẽ đến cứu, về sau cũng sẽ âm phù cho dân sống ấm no, không quên dạy dân thờ phụng Thánh Mẫu Thủy Cung cho nghiêm cẩn. Sáng dậy, ai cũng thuật lại cho nhau giấc mơ y hệt, bèn cung kính lập thêm long ngai bài vị Minh Đức Hoàng Bơ Thoải tại đền Thánh Mẫu Thoải Phủ. Sau này, khi đê Ngự Hàm vị bỡ, dân chúng trở tay không kịp bèn lập đàn cầu đảo. Hoàng Thái Tử Long Cung đã hóa thành bạch xà xuất hiện hàn long. Sau khi đê được hàn xong thì Bạch xà cũng biến mất lúc nào không hay. Dân làng đều biết là Minh Đức hoàng tử cứu giúp bèn về đền lễ tạ, sau này xây một ngôi đền ngay chỗ vỡ đê để thờ Thánh Hoàng Bơ Thoải, thuộc Đông Long, Tiền Hải, tỉnh Thái Bình.

Tiệc Quan Hoàng Bơ vào ngày nào ?

Ngày tiệc Quan Hoàng Bơ là ngày 26 tháng 6 Âm lịch.

Hầu giá Quan Hoàng Bơ

Quan Hoàng Bơ là một trong ba vị Thánh Hoàng hay giá ngự về đồng nhất trong Thập vị Thánh Hoàng, cùng với Quan Hoàng Bảy và Quan Hoàng Mười. Khi giá ngự đồng, ông mặc áo trắng (có thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp có thắt lét trắng, cài chiếc kim lệch màu trắng bạc. Có khi ông ngự về tấu hương, khai quang rồi một tay cầm mái chèo, một tay cầm quạt thong thả bẻ lái dạo chơi, cũng có khi ông cầm đôi hèo hoa, rong ruổi cưỡi ngựa đi ngao du khắp sơn thủy.
“Trên Thượng Thiên mây bay năm vẻ
Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi
Ông Bơ lịch sự tốt tươi
Biến trên mặt nước cưỡi đôi chép vàng”.

Quan Hoàng Bơ ThoảiQuan Hoàng Bơ Thoải khi loan giá ngự đồng

Quan Hoàng Bơ là một vị quan hoàng dung mạo tốt tươi, có tài văn võ kiếm cung. Khi nói về tài mạo song toàn của ông, văn hát rằng:

“Biến lên mặt nước lạ lùng
Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường
Ông Bơ Thoải đường đường dong mạo
Mặt nhường gương tiết tháo oai phong
Thanh xuân một đấng anh hùng
Toàn tài văn võ làu thông mọi đường
Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi
Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang
Khăn thêu, áo trắng, đai vàng
Võ hài chân bước, vai mang đôi hèo”

Hay khi ông thong thả ngự đồng nghe văn, cùng bầu rượu tiên, thả hồn cùng với gió trăng:

“Ngồi bên khe suối nảy cung đàn
Bồi hồi nhớ tới bạn chi loan
Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió
Gửi khách Tương Như khúc Phượng Hoàng”

Đền thờ Quan Hoàng Bơ ở đâu ?

Do có nhiều thần tích về Quan Hoàng Bơ nên khó xác định đâu là đền thờ chính của Quan Hoàng Bơ. Tuy nhiên, có lẽ có 4 nơi thờ ông Hoàng Bơ chính mà chúng ta có thể quan tâm:

  • Đền Quan Hoàng Ba – Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa;
  • Đền Hưng Long tại Thái Bình là hai nơi có thần tích.
  • Một ngôi đền nữa thờ Quan Hoàng Bơ đó là đền Vạn Ngang – Đồ Sơn – Hải Phòng nơi ghi nhận sự hiển linh của Ngài.
  • Đền Cờn (nay là đền Quan Hoàng Chín) trước đây có người cho là đền chính của Ngài.

Ngoài ra, Quan Hoàng Bơ được hầu hết phối thờ trong các đền trong cung Tứ Phủ Quan Hoàng hoặc ban thờ riêng. Trong cung Tứ phủ Thánh Hoàng, Quan Hoàng Bơ thường phối thờ với Quan Hoàng Bảy và Quan Hoàng Mười.

Hát văn Quan Hoàng Bơ

Bản 1

Trên Thượng Thiên mây bay năm vẻ

Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi

Ông Bơ lịch sự tốt tươi

Biến trên mặt nước cưỡi đôi chép vàng”

Hay nói về tài mạo song toàn của ông, văn hát rằng:

“Biến lên mặt nước lạ lùng

Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường

Ông Bơ Thoải đường đường dong mạo

Mặt nhường gương tiết tháo oai phong

Thanh xuân một đấng anh hùng

Toàn tài văn võ làu thông mọi đường

Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi

Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang

Khăn thêu, áo trắng, đai vàng

Võ hài chân bước, vai mang đôi hèo”

Hay khi ông thong thả ngự đồng nghe văn, thả hồn cùng gió trăng:

“Ngồi bên khe suối nảy cung đàn

Bồi hồi nhớ tới bạn chi loan

Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió

Gửi khách Tương Như khúc Phượng Hoàng”

Văn khấn Ông Hoàng Bơ

Trên điện ngọc rồng bay năm sắc

Dưới Động Đình ghềnh thác nguy nga

Mênh mông một dải giang hà

Ầm ầm sóng vỗ xa xa bạc đầu

Loài thuỷ tộc đâu đâu tìm đến

Vượt vũ môn xuất hiện thần long

Biến lên mặt nước lạ lùng

Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường

Ông Bơ Thoải đường đường dung mạo

Mặt nhường gương tiết tháo oai phong

Thanh xuân một đấng anh hùng

Toàn tài văn võ lầu thông mọi đường

Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi

Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang

Khăn thêu áo trắng đai vàng

Võ hài chân dận vai mang đôi hèo

Cưỡi ngựa bạch vai đeo cung tiễn

Tay kiếm vàng trước điện bước ra

Thương dân trên cõi Sa Bà

Lòng tham chìm đắm đức hoà khó lên

Trước bệ ngọc Hoàng liền tấu đối

Lên cõi trần mở hội phúc duyên

Khâm sai Hoàng kíp băng miền

Phong lôi một trận nổi lên cõi phàm

Bạn tiên nữ xếp hàng rong ruổi

Cá kình nghê thẳng lối tiễn đưa

Sai quân dưỡng trực lên bờ

Trống dong cờ mở thực là nghiêm trang

Sắp hai hàng càng vàng tán tía

Kiệu vàng son nghi vệ bát âm

Tuần vương nghỉ gót dừng chân

Hoạ thơ Lý Đỗ ca ngâm đọ cờ

Tiệc xong lại chèo đua bẻ lái

Truyền chèo về Bát Hải dong chơi

Quỳnh Côi,Phượng Dực mấy nơi

Sông Thao,sông Cả qua chơi Lục Đầu

Chơi khắp hết sông Cầu sông Mã

Truyền ba quân các ngả thi đua

Lên rừng lấy gỗ chò hoa

Đem về dâng tiến vua cha Động Đình

Ngự Bắc kinh,Thăng Long quý địa

Phủ Tây Hồ tú khí danh lam

Dừng thuyền bái yết Mẫu Vương

Mẫu ban chấp chính cầm quyền vào ra

Cho coi sóc các toà cung nội

Riêng một bầu phượng ruổi loan ca

Đông Cuông, Tuần Quán các tòa

Cây cao bóng mát rườm rà tốt tươi

Đàn cá lội rõ mười không khác

Kết thành lầu dàn dặt đêm thanh

Trăng soi đáy nước thuỷ đình

Có thoi Hoàng thoải xinh xinh khác thường

Thoi sáng ánh kim cương lấp lánh

Biết bao người mến cảnh say sưa

Trách ai vô ý không ngờ

Qua không bái yết thực là khó van

Ai biết phép gia ban tài lộc

Độ cho người văn học thông minh

Hoàng về trắc giáng điện đình

Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường

Bản 2

Động Đình tây hồ thu nguyệt huy

Tiêu Tương giang bắc tảo hồng phi

Túy khách mãn thuyền ca Bạch trữ

Bất tri sương lộ nhập thu y.

Mực in vách phấn đề thơ

Hồ Tây sóng nước bây giờ là đây

Gió trăng chở một thuyền đầy

Của kho vô tận, biết ngày nào vơi

Phú nói :

Thuyền nan nhè nhẹ một con chèo

Thuyền Hoàng Bơ Thoải dạo Hồ Tây

Sóng dập dờn sắc nước trời mây

Bát ngát nhẽ ghẹo người du lãm

Yên thuỷ mang mang vô hạn cảm

Ngư long tịch tịch thục đồng tâm

Rượu lưng bầu mong mỏi bạn tri âm

Xuân vắng vẻ biết cùng ai ngâm họa

Gió hây hẩy không nức mùi nhang xạ

Nhác trông lên vách phấn đã đề bài

Thơ ai, xin họa một vài

(Trích Tỳ Bà Hành)

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019

Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát

Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát hay còn được gọi là Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn hoặc Đệ Nhị Vương Quan là vị tôn quan đứng thứ hai sau Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên và đứng trước Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan cộng đồng các Quan.Ngài nổi tiếng là vị tôn quan linh thiêng anh linh Tứ Phủ, được nhân dân cung kính và thờ phụng thành tâm tại nhiều ngôi đền trên cả nước.

“Thượng ngàn giám sát quyền cai
Thông tri tam giới khâm sai đại thần
Có phen giá vũ đằng vân
Bát muôn công tử xa gần làm tôi”

Quan Lớn Đệ Nhị là ai ?

Quan Lớn Đệ Nhị vốn là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ngài theo lệnh Vua Cha, hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung (có sách nói là ông hạ phàm ngày mồng ba tháng mười một năm Ất Dậu vào một nhà quý tộc). Ngài văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được khắp muôn dân nơi nơi ngưỡng mộ, các vương tôn công tử đều thuận tình đến làm học trò. Đến khi về chầu Thiên Đình, ngài lại được giao quyền giám sát cai quản miền sơn lâm, thượng Ngàn. Ngài giáng thế ban phúc trừ tai cho dân, khi dân chúng bị hạn hán, cầu đảo tới ngài thì lập tức có mưa thuận gió hòa.

Quan Lớn Đệ Nhất

Sự tích về Quan Lớn Đệ Nhị

Sự tích về Quan Lớn Đệ Nhị vào đời Hùng Vương thứ 6, ngài giáng trần giúp Đức Thánh Gióng chiến thắng giặc Ân, sau đó ngài thác hóa tại Vân Đình. Đến đời Hùng Vương thứ 18, quan hạ sinh tại đất Nam Ninh vào nhà họ Nguyễn tên là Nguyễn Chiêu Minh. Tại đây, ngài trở thành một trong những vị tướng phò Vua Cha Bát Hải Động Đình Vĩnh Công Đại Vương đánh giặc Thục xâm lược. Sau này, cũng theo lệnh vua Cha, ngài đầu thai vào một nhà quý tộc tại Hoàng Cung thời nhà Lê vào ngày 10/10 năm Bính Dần (cũng có sách nói ông hạ phàm ngày mùng 3/11 năm Ất Dậu). Đến khi trở về thiên đình, ngài lại được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm Thượng Ngàn. Ngài giáng thế ban phúc cho dân. Khi nhân dân gặp hạn hán, mất mùa, cầu đảo quan ông thì ngài lập tức cho mưa gió thuận hòa. Hàng năm, vào ngày 11/11 âm lịch hàng năm, người dân tổ chức lễ tiệc Quan Đệ Nhị Giám Sát.

Ngoài sự tích trên còn căn cứ theo các văn hầu từ thời xưa để lại chúng ta có thể mường tượng về Ngài. Ngài vốn là ở cõi Thiên Đình, con vua Ngọc Hoàng được giáng xuống trần gian:


Vốn xưa ông ở thiên đình
Con vua Thượng Đế giáng thần dương gian

Ngài sinh ra trong một gia đình quý tộc. Ngay từ thủa nhỏ Ngài đã giỏi văn thơ và nổi tiếng thông minh, không ngoan:

Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan.

Bỗng một hôm đến hạn về trời, trời bỗng nổi mưa gió, bão bùng Hà Bá, Thủy thần đã rước Ngài đi. Ngày Ngài hóa cũng là ngày mùng 3 tháng giêng.

Chẳng ngờ Thượng Đế đến kì
Mồng ba tháng một, một khi giờ dần
Sắc sai hà bá thuỷ thần
Quần tiên đón rước chẳng nhầm một ai

Về chốn Thiên Cung ông có nhiệm vụ “Quản tam giới quyền cai giám sát” nên chuyên lo về sổ sách sinh tử của cõi trần gian:

Sổ hội đồng một tay nắm giữ
Số trần gian sinh tử sót ai.

Nên ông là vị thánh chuyên cân đong tội, công và điều chỉnh họa phước cho  các sinh linh trong cõi trần thế.

Rút dây tội phước cân người tội cô ng.

Ông còn là một vị thánh văn võ song toàn:

Võ thời ví với Đức Quan
Văn thời sánh ví Mạnh Nhan thay là.

Ông còn giỏi cờ, thi ca, phú họa:

Cờ Tiên một đấu thơ vài trăm thiên.

Ông là một vị thánh anh minh, độ lượng, hết lòng cứu giúp cho mọi sự an khiên, bất hạnh của cõi dương gian:

Dù ai hữu sự kêu van
Khấn Quan Đệ Nhị thọ khang yên lành

Đó là một vị thánh nổi tiêng trong tứ phủ bởi sự thông minh, chính trực, luôn một lòng độ cho nước cho dân:

Thông minh chính trực, giúp nước phù đời
Quyền sơn lâm cai khắp mọi nơi
Vâng ngọc chỉ giáng thần Nam Việt
Anh hùng hào kiệt, độ khắp vạn dân

Hầu Quan Lớn Đệ Nhị

Quan Lớn Đệ Nhị là một trong ba vị quan lớn rất hay ngự đồng kể cả trong những ngày tiệc vui hay khoa lễ thông thường đều thỉnh Quan Lớn Đệ Nhị về chứng đàn chứng sớ. Khi ngự đồng, Quan Lớn Đệ Nhị mặc áo xanh (cũng có khi là xanh lá cây) thêu rồng, hổ phù. Ngài về làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm (theo cách hầu Quan Giám Sát thì có nơi múa đôi kiếm, có nơi múa một kiếm, có nơi lại múa một kiếm một cờ như lúc ngài ra trận).

Cũng như Quan Lớn Đệ Nhất, khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Lớn Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ (Thượng Ngàn) đàn mã đều màu xanh. Ngoài ra vào những dịp đại lễ như mở phủ khai đàn, tạ phủ…trước ngày làm lễ, người ta thường thỉnh Quan Lớn Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ.

Đền thờ Quan Lớn Đệ Nhị

Quan Lớn Đệ Nhị được thờ ở nhiều nơi, bất cứ đền điện nào có ban Công đồng thì trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan

Ngoài ra một số Đền thờ Quan Lớn Đệ Nhị có thể kể tới như:

  • Đền Quan Giám ở trên huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn (là nơi quan trấn giữ miền Sơn Lâm)
  • Đền Quan ở Phố Cát, Thanh Hóa (là nơi quan giáng hạ dạo chơi).
  • Đền Quan Lớn Đệ Nhị tại Thái Bình gần đền Đồng Bằng (là nơi quan hội quân giúp Vua Cha Bát Hải chiến đấu chống ngoại xâm).

Tiệc Quan Lớn Đệ Nhị

Ngày khánh tiệc chính của Quan Lớn Đệ Nhị là vào ngày 10 tháng 11 Âm lịch (được cho là ngày hạ phàm của quan)

Văn Quan Lớn Đệ Nhị

Một số bản văn về Quan Lớn Đệ Nhị dưới đây được ban biên tập biên soạn gửi tới quý độc giả

Bản văn Quan Lớn Đệ Nhị số 1

Thỉnh mời Hoàng đế tinh quân
Hiệu ông đệ nhị thiên đình giáng sinh
Vốn xưa ông tại thiên đình
Đêm ngày chầu chực ở trong lâu đài

Số sinh số tử trên đời
Một tay biên chép chẳng sai số nào
Bách quan văn vũ nội tào
Khi ra bệ ngọc khi vào toà trương

Thông minh chính trực mọi đường
Kiên hào đỉnh túc chẳng nhường một ai
Thiên tào đệ nhị thứ hai
Thông tri tam giới mọi nơi xa gần

Phép ông hành vũ hành phong
Đâu đâu cũng đều phục tình làm tôi
Trời làm đại hạn nắng lôi
Cầu ông đảo vũ một thôi dần dần

Ông sai hà bá thuỷ thần
Tự nhiên nổi trận đùng đùng mưa sa
Điều hoà thiên hạ xướng ca
Nam nữ trẻ già sợ phép tôn quan

Lệnh truyền sai xuống thuỷ cung
Tự nhiên mưa gió mênh mông đồn điền
Hợp hoà thiên hạ dưới trên
Bờ nào bờ ấy nước chan đầy bờ

Dù ai đi sớm về khuya
Phong điều vũ thuận thái hoà nghỉ ngơi
Có phen thong thả ngồi chơi
Tuyển người số mực chép người số son

Vua cha nghe hết nguồn cơn
Ai làm nấy chịu chẳng còn có oan
Sai xuống hạ giới làm quan
Sinh vào quý tộc hiền lương đức lành

Vừa năm ất dậu thai sinh
Mồng ba tháng một đã sinh ra người
Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan

Song đường mừng rỡ yêu thương
Rằng nhà có phúc kẻ thương người vì
Chẳng ngờ Thượng Đế đến kì
Mồng ba tháng một,một khi giờ dần

Sắc sai hà bá thuỷ thần
Quần thiên đón rước chẳng nhầm một ai
Ngũ lôi hiệu lệnh tướng trời
Nhị thập bát tú mọi nơi trương toà

Đều thời vâng lệnh vua cha
Rước quan đệ nhị trên toà thượng thiên
Song đường thương nhớ chẳng yên
Sao ông nỡ để mối phiền dương gian

Sinh thành dưỡng dục núi non
Lấy ai khuya sớm thần hôn cho đành
Vốn xưa ông ở thiên đình
Con vua Thượng Đế giáng thần dương gian

Dù ai có lệnh kêu van
Khấn ông đệ nhị thọ khang yên lành
Thiên tư chính trực thông minh
Giáng Đền giáng phủ anh linh muôn phần

Chữ rằng Thánh giáng lưu ân
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường

Phú :

Nhác trông lên tòa vàng san sát,
Không đâu bằng Phố Cát Đồi Ngang.

Đá lô xô nước chảy làn làn,
Điều một thú cỏ hoa như vẽ.

Nhạn chiều hôm bay về lẻ tẻ,
Trên sườn non chim sẻ ríu ran.

Nuớc dưới khe tung tính tiếng đàn,
Trên đỉnh núi tùng reo điểm trống.

Có thơ rằng:

Ngần ngật Sòng Sơn kiêu dị lộc
Thanh thanh tri thủy chiếu trần tâm
Sơn tri cao hệ thủy chí thâm
Đây thực chốn non nhân nước trí.

Thượng phong tri thủy địa cốc lâm san
Nam thiên tri đệ nhất đền quan
Cảnh lạc thú thượng ngàn sơn cước

Thông minh chính trực,giúp nước phù đời
Quyền sơn lâm cai khắp mọi nơi
Vâng ngọc chỉ giáng thần Nam Việt

Anh hùng hào kiệt,độ khắp vạn dân
Sắc gia ban :Thượng đẳng tôn thần
Quyền giám sát,kiêm tri phủ viện
Nghe văn thỉnh luyện,giá ngự từ trung
Chữ “Sở cầu hữu cảm tất thông”
Hộ đệ tử đồng gia thời phú quý

Bản văn Quan Lớn Đệ Nhị số 2

Nhác trông lên biển đề choi chói
Dưới sân rồng nhang khói long lanh
Muôn hoa đua nhị trên cành
Sơn trang quan giám yến quỳnh bẻ bai

Quản tam giới quyền cai giám sát
Nương càn khôn lăng quát trong tay
Khâm thừa đế lệnh xưa nay
Quyền quan giám sát chức dày thiên cung

Sổ hội đồng một tay nắm giữ
Số trần gian sinh tử sót ai
Có phen ngự cảnh bồng lai
Rút dây tội phước cân người tội công

Có phen tới sân rồng chầu chực
Tấu đối xong nhật khắc tăng du
Có phen đằng giá Vân Cù
Mưa tuôn khói toả sấm ù dậy vang

Họp bàn loan đình Thần ca tụng
Chén rượu quỳnh Quan chú Quan anh
Cửa đền gió mát trăng thanh
Đàn ca sáo thổi dạo quanh trước lầu

Có phen ra tiếp hầu Lưu Quí
Ván cờ Tiên đấu trí một hai
Có phen thắng cảnh đua tài
Cờ Tiên một đấu thơ vài trăm thiên

Thơ Lý Bạch cờ tiên dám ví
Rượu lưu ly tửu thí coi chi
Ngắm xem hoa cúc hoa quỳ
Hoa lan hoa huệ tứ kì bách hoa

Vượn thượng uyển trăm hoa đua nở
Thú chơi hoa phải biết mùi hoa
Hoa lan hoa huệ hoa trà
So sánh có mai hoa là đệ nhất

Đã đẹp lại thơm hương cũng ngát
Màu trong so ngọc trản nào thua
Mặn mà mọi vẻ mọi ưa
Bách hoa đua nở bốn mùa ngát hương

Vang tiếng trống bốn phương sấm động
Cửa thiên môn lồng lộng uy quang
Đức ông chính ngự ngai vàng
Kiêm tri tam giới,Ngọc Hoàng sắc phong

Ban hiệu vị Quận Công Giám Sát
Quyền quản cai Phố Cát Đồi Ngang
Võ thời ví với Đức Quan
Văn thời sánh ví Mạnh Nhan thay là

Giáng sinh ngày mồng ba tháng một
Trung thiên thời chính ngọ xuất thân
Thung huyên mừng rỡ muôn phần
Sinh ra là đấng trung thần trượng phu

Tài văn võ cơ đồ bất nhị
Thượng đẳng thần Đệ nhị tôn quan
Dù ai hữu sự kêu van
Khấn Quan Đệ Nhị thọ khang yên lành

Nén nhang thơm tâm thành khấu thủ
Ứng pháp mầu đảo vũ thu vân
Chữ rằng thánh giáng lưu ân
Tôn Quan lưu phúc thiên xuân thọ trường

Bản văn Quan Lớn Đệ Nhị số 3

Sơn tiêu sơn động sơn trang
Đền thờ quan giám sát thượng ngàn tối linh
Muôn hoa đua nhị trên cành
Bộ nàng tha thướt yến quỳnh bẻ bai

Thượng ngàn giám sát quyền cai
Thông tri tam giới khâm sai đại thần
Có phen giá vũ đằng vân
Bát muôn công tử xa gần làm tôi

Trời làm đại hạn nắng nôi
Kiều quan đảo vũ một thôi giờ dần
Lệnh sai hà bá thuỷ thần
Tự nhiên dâng nước xoáy vần mưa sa

Điều thời thiên hạ xướng ca
Phong điều vũ thuận thái hoà thảnh thơi
Có phen thong thả ngự chơi
Tuyển người số mực chép người số son

Vua cha nghe hết nguồn cơn
Ai làm nấy chịu chẳng còn có oan
Lệnh truyền giáng hạ làm quan
Sinh vào quý tộc hiền lương đức lành

Vừa năm ất dậu thai sinh
Mồng ba tháng một đã sinh ra người
Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan

Song đường mừng rỡ yêu thương
Rằng nhà có phúc kẻ thương người vì
Chẳng ngờ Thượng Đế đến kì
Mồng ba tháng một,một khi giờ dần

Sắc sai hà bá thuỷ thần
Quần tiên đón rước chẳng nhầm một ai
Ngũ lôi hiệu lệnh tướng trời
Nhị thập bát tú mọi nơi trương toà

Đều thời vâng lệnh vua cha
Rước quan đệ nhị lên toà thượng thiên
Song đường thương nhớ chẳng yên
Sao ông nỡ để mối phiền dương gian

Sinh thành dưỡng dục núi non
Lấy ai khuya sớm thần hôn cho đành
Vốn xưa ông ở thiên đình
Con vua Thượng Đế giáng thần dương gian

Dù ai có lệnh kêu van
Khấn ông đệ nhị thọ khang yên lành
Thiên tư chính trực thông minh
Giáng Đền giáng phủ anh linh muôn phần

Chữ rằng Thánh giáng lưu ân
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường​.

Văn khấn Quan Lớn Đệ Nhị

(Tham khảo)

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu

Kính lạy: Quan Lớn Đệ Nhị Tôn Quan, cộng đồng các quan.

Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Nhị Tôn Quan cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Nhị Tôn Quan cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Thần tích Quan Hoàng Đôi

Quan Hoàng Đôi là vị thánh hoàng thứ hai trong hàng Tứ phủ Quan Hoàng trong Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt, ngài đứng sau Quan Hoàng Cả và đứng trước Quan Hoàng Bơ Thoải. Sử sách lưu truyền về ngài là một vị tướng toàn tài, hay kinh sử, nhuần binh thư, trung thần phò vua hộ quốc. Ngài từng tham gia nhiều trận đánh trên thượng ngàn và sau này khi hiển thánh, ngài trở thành vị Quan Hoàng thứ hai trong Tứ phủ Thánh Hoàng, được nhân dân nhiều vùng lập đền nghiêm cẩn thờ kính.

“Thỉnh mời đệ nhị Quan Hoàng
Thống trị thiên hạ mọi nơi xa gần.
Thỉnh mời ông Hoàng đế tinh quân
Đệ Nhị ông ở rừng xanh ngự về”

Quan Hoàng Đôi là ai ?

Theo truyền thuyết Quan Hoàng Đôi là con vua cha Bát Hải, ngài được sai giáng xuống trần đầu thai vào làm con trai nhà họ Nguyễn ở đất Thanh Hoa. Lớn lên ngài là một vị tướng toàn tài, hay kinh sử, nhuần binh thư. Ngài là một vị trung thần thời Lê có nhiều công lao trong việc phù giúp nhà Lê dẹp Mạc. Khi đánh nhà Mạc tháo chạy lên Cao Bằng, ngài được phong quan trấn giữ vùng Triệu Tường làm việc an dân. Khi Ngài thác hóa được vua khắc tên lên bảng vàng ghi công và lập đền để hậu thế tưởng nhớ. Vì vậy có nơi xem ngài là một vị Quan Lớn gọi là Quan Lớn Triệu Tường và thỉnh ngài ngay sau giá Quan Điều Thất.


Quan Hoàng Đôi

Trong khi đó thánh tích tại đền Sòng và phố Cát để lại, Quan Hoàng Đôi là vị thánh hoàng hầu Mẫu ở Đền Sòng và Phố Cát, ngài được sắc phong Thượng Đẳng Thần làm việc thượng ngàn giám sát, là một trong Tứ Vị Khâm Sai đi chấm lính nhận đồng, nhận căn số cho con nhà Tứ Phủ về sau hầu thánh. Tương truyền khi sinh thời Quan Hoàng Đôi là người Mán có công cùng Quan Hoàng Bảy trừ giặc cứu dân, được sắc phong Tướng Công. Trong văn Quan Hoàng Bảy có đoạn mô tả về Quan Hoàng Đôi có công đánh trận cùng Hoàng Bảy, chính vì vậy mà người ta còn gọi Quan Hoàng Đôi là Quan Hoàng Đôi Bảo Hà. Trong văn ông Bảy có câu rằng:

“Doanh trung thường có hai hoàng vào ra
Quan Hoàng Bảy Bảo Hà chính vi
Cùng tướng công Đệ Nhị Hoàng Đôi
Can qua dâu bể biển đời, anh hùng xưa đã ra người cung tiên”

Đền thờ Quan Hoàng Đôi

Hiện nay ở miền bắc và miền trung vẫn có nhiều ngôi đền thờ tự Quan Hoàng Đôi, cụ thể:

Đền thờ Quan Hoàng Đôi ở Cẩm Phả, Quảng Ninh: Ngôi đền này có tên gọi là đền Hoàng Đôi Bảo Hà, do được nhân dân rước từ vùng Bảo Hà về đây thờ tự. Thủ nhanh lập đền này là cụ đồng Nhâm với lòng tôn kính và biết ơn công lao to lớn của Quan Hoàng Đôi đã anh dũng vệ quốc cứu dân. Đây là phần đất của gia đình cụ đồng Nhâm và cụ đã tự xây dựng ngôi đền và rước chân nhang Ngài về để thờ phụng.

Đền thờ Quan Hoàng Đôi ở Bảo Hà, Lạng Sơn: Nơi đây Quan Hoàng Đôi được thờ tại cung Tứ Phủ Ông Hoàng tại đền Bảo Hà ngôi đền chính thờ Quan Hoàng Bảy. Lý do Ông được thờ trong đền Quan Hoàng Bảy Bảo Hà là do hai ông có mối liên hệ mật thiết và điều này là hợp lý vì hai ông cùng đi đánh giặc vệ quốc với nhau. Người ta thường để tượng của Ông Hoàng Đôi màu xanh còn Ông Hoàng Bảy là màu tím. Đây cũng là màu áo chính của hai ông trong nghi lễ hầu đồng.

Đền thờ Quan Hoàng Đôi tại Phủ Tây Hồ, Hà Nội: Phủ Tây Hồ nơi gắn liền với Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì nơi đây cũng là một trong những địa điểm tâm linh thờ phụng Quan Hoàng Đôi. Nơi thờ ông nằm ở bên cung Sơn Trang, nhìn vào hai bên cầu sẽ thấy có hai vị Quan Hoàng đang cưỡi ngựa bạch. Một vị mặc áo đỏ, đai vàng, khăn xếp lét màu vàng là Quan Hoàng Tứ. Vị còn lại mặc áo xanh chính là Quan Hoàng Đôi.

Ngoài ra, chùa Quang Minh ngay phía sau đền Bảo Hà là nơi Ông Hoàng Đôi được thờ chính.

Hầu giá Quan Hoàng Đôi

Theo sắc phong Tứ Phủ, khi ngự về đồng Quan Hoàng Đôi ngự áo xanh lá cây chít khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi mạng chéo, đi ghệt tay và ghệt chân, tay cầm đôi hèo. Ngài làm lễ khai quang, đi hèo ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ, ban phát lộc tài. Trước kia, Ông Hoàng Bảy thường ít được hầu hơn là Quan Hoàng Đôi, tuy nhiên về sau thì người ta hầu Quan Hoàng Bảy là chủ yếu, ít khi hầu Quan Hoàng Đôi hơn. Nhiều quan điểm cho rằng thường chỉ hầu một trong hai ông vì hai ông đều cùng chinh chiến đánh giặc với nhau. Theo lối cổ chỉ những đồng cựu, thủ nhang, đồng đền, đạo trưởng mới được hầu giá Quan Hoàng Đôi.

Quan Hoàng Đôi

Quan Hoàng Đôi loan giá ngự đồng.

Văn Quan Hoàng Đôi

Hoàng Đôi đem quân lên ngàn

Đùng đùng súng nổ dậy vang khắp trời

Sớ văn tấu thỉnh khuyên mời

Thỉnh Hoàng linh ứng ngự chơi đền này

Quan Hoàng vạn phép trong tay

Tam sanh sửa lễ khi nay khẩn cầu

Ai thời căn số phải hầu

Lập đàn thỉnh bóng, quy đầu làm tôi

Thánh Hoàng hoá phép trên trời

Hải môn bốn bể khắp nơi quyền hành

Bảo Hà coi chốn rừng xanh

Thổ Nùng Thổ mán phục tình làm tôi

Sắc phong chính hiệu Hoàng Đôi

Mười hai cửa bể mọi nơi đi về

Con vua Bát Hải thuỷ tề

Long thần Hoàng cưỡi đi về sớm khuya

Bấy giờ có sớ dâng lên

Vua Cha giáng chỉ hạ truyền phán ra

Kíp ngay diệt lũ yêu ma

Thánh hoàng đội lệnh bước ra sân rồng

Ba quân, lĩnh ấn công đồng

Kiếm thiêng ra phép thần thông xoay vần

Trên trời nổi trận phong vân

Sai lôi lôi giáng tối tăm mịt mờ

Pháp màu biến ứng thần cơ

Quỷ tan tà tán bấy giờ thu lôi

Chiêng kêu, trống đánh ba hồi

Thượng đường mở hội đón người lên công

Vua cha ban sắc tặng phong

Càng thêm tối tú oai hùng uy quang

Tiểu tôi bái lạy đức Hoàng

Dám xin soi xét trần gian lỗi lầm

Hoàng về giáng lưu ân

Khuông phù đệ tử thiên xuân thọ trường

Văn mời nước Quan Hoàng Đôi :

Hỡi cô chuốc rượu vậy thời nơi nao

Tề tay tiên chuốc chén rượu đào

Dâng lên là lên cúng Mẫu

Dâng vào tiên thánh Hoàng sơi.

Đệ nhất tuần sơ, ông đã hiểu rồi

Đệ nhị tuần á, chúc chén rượu đầy.

Các cô dâng lên cúng Mẫu

Các cô dâng vào tiên thánh Hoàng sơi.

Đệ nhất tuần sơ, đệ nhị tuần á, đệ tam tuần chung

Các cô dâng lên cúng Mẫu

Các cô dâng vào tiên thánh Hoàng sơi.​.. 

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...