Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Những ngôi đền THANH HÓA

 

Đền Sóng Sơn (đền mẫu)


Đền Cô Chín giếng (đền Sòng Sơn)


Đền Cô Chín


Đền Rồng


Đền Cô Bơ



Đền Phúc Lâm Linh Từ


Đền thờ Hoàng Minh Tự (Đền Đệ Tam)


Đền chầu đệ tứ (đền Cây thị)


Đền Đức Thánh Cả


Đền Thiên Tiên Thần Nữ


Đền Trần - Phủ Vặng


Đền thờ Nguyễn Phục


Đền thờ Tống Duy Tân


Đền thờ Thượng đẳng Phúc thần Đại vương Thiều Thốn


Đền Trần Nhật Duật



Đền thờ Lê phụng Hiểu


Thành Nhà Hồ Vĩnh Lộc


Đền thờ Lê Lợi


Khu Di Tích Văn Hóa Lam Kinh


Thái miếu nhà Hậu Lê


Đền Cô Tiên


Đền Độc Cước



Đền thờ Trần Hưng Đạo (xã Hà Dương).

* HUYỆN THIỆU HÓA

- Đình Ngô Xá Hạ (xã Thiệu Minh), nơi tập trung Cứu quốc quân kéo về tỉnh lỵ Thanh Hóa ra mắt đồng bào ngày 23 - 8 - 1945, của Uỷ ban Nhân dân Cách mạng lâm thời tỉnh Thanh Hóa.

- Đền thờ Lê Văn Hưu (xã Thiệu Trưng)

- Đền thờ Đinh Lễ (xã Thiệu Hưng)

- Đền thờ Nguyễn Quán Nho (xã Thiệu Hưng)

- Đền thờ Dương Đình Nghệ (xã Thiệu Dương)

- Đền Trà Đông (xã Thiệu Trung)

* HUYỆN HẬU LỘC

- Đền và lăng Bà Triệu (xã Triệu Lộc).

- Đền Hoa quận công Đỗ Danh Khanh (xã Thuần Lộc).

- Nhà thờ Á trạng Phạm Thanh (xã Hoà Lộc).

- Nhà thờ Phạm Bình (xã Hoà Lộc).

- Đình Lục Trúc (xã Phú Lộc), Đình có kiến trúc cổ và tương đối cơ ngơi. Từ ngôi đình này, Hoàng Bật Đạt đã khởi quân và tế cờ Cần Vương.

* HUYỆN HOẰNG HÓA

- Bảng môn đình (xã Hoằng Lộc).

- Đình Liên Châu và đình Hoàng Chung (xã Hoằng Châu)

- Đình làng Thượng Thôn và đình làng Trụ Thôn (xã Hoằng Lý)

- Đình Đông Khê (xã Hoằng Quỳ)

- Đình Phú Khê (xã Hoằng Phú).

- Đình Phượng Mao (xã Hoằng Phượng)

- Đền Thánh Tến thờ Lê Phụng Hiểu (xã Hoằng Quỳ).

- Đền Lê Phụng Hiểu (xã Hoằng Sơn)

- Đền Triệu Quang Phục (xã Hoằng Trung).

- Đền Tô Hiến Thành (xã Hoằng Phượng)

- Nhà thờ Nguyễn Quỳnh (xã Hoằng Lộc).

- Đền Bà Quốc mẫu (xã Hoằng Xuân)

- Nhà thờ Lương Đắc Bằng (xã Hoằng Phong).

- Đền Hà Lộ (xã Hoằng Tiến).

- Nhà thờ Nguyễn Phan (xã Hoằng Đạt)

- Đền Đồng Cổ (xã Hoằng Minh)

- Nhà thờ Nguyễn Đình Giản (xã Hoằng Quang)

- Đền thờ Cao Lỗ (xã Hoằng Giang)

- Từ đường dòng họ Lê Duy (xã Hoằng Phú)

- Nhà thờ Bùi Khắc Nhất (xã Hoằng Lộc)

- Đình làng Trung Hòa (xã Hoằng Trung)

- Đình làng Xa Vệ (xã Hoằng Trung)

* HUYỆN LANG CHÁNH

- Đền Chèng Khẹt (xã Đồng Lương)

* HUYỆN MƯỜNG LÁT

- Đền Tư Mã ( xã Tén Tần).

* HUYỆN NÔNG CỐNG

- Đền Bà thờ Bà Triệu (xã Tế Thắng)

- Đền Ôi, thờ Trần Khát Chân (xã Tế Thắng)

- Đền Vua Bà, thờ Tam giang Thần mẫu (xã Tế Tân)

- Đền Mối, thờ Trần Khát Chân (xã Trung Thành).

- Nhà thờ Đinh Liệt (xã Trung Chính)

- Nhà thờ Vũ Uy (xã Tân Phúc).

- Nhà thờ Đỗ Bí (xã Minh Nghĩa).

- Đền Tham Xung Tá Quốc (xã Trung Thành)

- Đền Lê Hiểm (xã Tân Phúc)

- Nhà thờ họ Lê Sĩ (xã Hoàng Giang)

- Nhà thờ họ Lê Đình Túc (xã Trung Ý)

- Đền thờ Ngô Xuân Quỳnh (xã Trường Giang)

* HUYỆN NGA SƠN

- Đền vua Hùng thứ 11 (xã Nga Thắng).

- Đền Mai An Tiêm (xã Nga An).

- Đền Lê Thị Hoa (xã Nga Thiện).

- Đền Trịnh Minh (xã Nga Thiện).

- Đền Từ Thức (xã Nga Thiện).

- Đền thờ Áp lãng chân nhân (xã Nga Giáp).

- Đền Triệu Quang Phục (xã Nga Thanh).

- Đền Trần Hưng Đạo (xã Nga Thủy).

- Đền Mai Thị Ngọc Tiến (xã Nga Thủy).

- Đền Nguyệt Nga Hoàng phi (xã Nga Bạch).

- Đền Bạch Tượng (Bạch Tượng tự - xã Nga Giáp)

* HUYỆN NHƯ THANH

- Phủ Sung (xã Hải Vân)

- Phủ Na (xã Xuân Du)

* HUYỆN NGỌC LẶC

- Đền Lê Thái Tổ (làng Như Áng). Đền còn giữ được 15 đạo sắc.

- Đền Tép, thờ Lê Lai (xã Kiên Thọ).

* HUYỆN QUẢNG XƯƠNG

- Phủ Voi (xã Quảng Thịnh)

- Đền An Dương Vương, có tượng Mỵ Châu cụt đầu (xã Quảng Châu).

- Đền Bùi Sĩ Lâm (xã Quảng Tân).

- Đền Lê Bá Trí (xã Quảng Tân).

- Đền Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật (xã Quảng Hợp).

- Nhà thờ Hoàng Bùi  Hoàn (xã Quảng Trạch).

* HUYỆN TĨNH GIA

- Đền thờ Đào Duy Từ (xã Nguyên Bình)

- Đền Quang Trung (xã Hải Thanh).

- Nhà thờ Thiên chúa giáo Ba làng.

- Chùa Đót Tiên (xã Hải Thanh)

- Đền Thanh Xuyên (xã Hải Thanh)

- Đền Lạch Bạng (ở cửa Lạch) thờ Tứ vị thánh nương (xã Hải Thanh)./.



Cô Cả Núi Dùm


Thánh Cô đền Giùm Tuyên Quang là Thánh Cô bản Đền Giùm ( cùng với cô bé Núi Giùm ), trong khóa cúng về sơn lâm thì cô được thỉnh về với danh hiệu là cô Đệ Nhất Sơn Tinh, hay Cô Cả Sơn Trang, Cô Nhất Núi Dùm ngự áo Trắng, về ngự đồng múa mồi hoặc múa đôi quạt trắng hầu Mẫu Thoải Đền Giùm, cô thường ít khi ngự đồng, chỉ có ai khi về đến đất Tuyên, về đến đền Giùm thì hay thỉnh tiên cô giá ngự.Văn thỉnh cô hay hát rằng: "

Sông Lô nước lượn lưng đèo
Có cô Đệ Nhất tiền triều hiển linh
Thoi bán nguyệt hiện hình bẻ lái
Cảnh núi Giùm sớm tối vào ra
Tuyên Quang chính quán quê nhà

Phố phường xum họp gần xa tiếng đồn...."​Còn cô Cả Vân Đình - Ứng Hòa - Hà Tây cũ thì không phải tiên cô nằm trong hệ thống thánh cô Tứ Phủ thánh Cô, Cô là tiên cô bản đia tại đất Ứng Hòa, Cô hiển linh theo hầu thánh mẫu được sắc phong ngôi đệ Nhất trong hàng tiên cô, nhưng không thuộc ngôi Tứ Phủ. Thường dâng văn thờ cô hay hát rằng:

" ....Có Cô Đệ Nhất Vân Đình
Neo thuyền bến bạc hiển linh Ứng Hòa
Bùi ngùi duyên trái tang thương

Mượn dòng nước bạc thân phàm xá chi..."​Còn thánh cô Đệ Nhất trong tứ phủ tiên cô thì hiện nay mình mới chỉ nghe là đền cô trong đất Nghệ An, từ đền đức thánh Hoàng Mười vào đền tiên cô còn gần 50km nữa. Nhưng mình chưa có cơ duyên được về chiêm bái cửa cô. , Mong sớm được về ( nghe đồn ở đấy có đặc sản bánh Ngào ( như kiểu bánh trôi chay của miền Bắc, ăn với nước mật mía nấu, hay lại có loại có nhân thịt quay, loại nhân đỗ xanh, ) Nghe bạn gái mình nói thì món này ăn ngon lắm. Hixxx. Khi thỉnh cô thì văn hay hát rằng:

"Chơi thôi cô lại tái hồi
Nghệ An ,Hà Tĩnh là nơi đi về
Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà
Bình Định, Gia Định bao xa
Khi chơi Ba Dội lúc ra Chiêm Thành
Dạo chơi các tỉnh nức danh
Trở về tới đất tỉnh Thanh ngự đồng
Nhận đồng má phấn lưng ong
Cô Nhất chấm đồng tiến Mẫu Sòng Sơn
Phép cô lục trí ai hơn
Quyền cô cai quản giang sơn thủy tề..."​

Đền Mẫu Thượng Soài Sơn - Sài Sơn Linh Từ - LẠNG SƠN


Đền Mẫu Thượng Soài Sơn - Sài Sơn Linh Từ柴 山 灵 祠
Ngõ 1 đường Ngô Thì Sỹ, phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn
Đền thờ Mẫu, được xây dựng trên triền đá đầu dãy núi Nhị Tam Thanh đã từ lâu, rất linh thiêng. Trên quả núi này có nhiều cây lớn như đa, gạo um tùm, cổ kính, soi bóng xuống đền bóng râm mát, tôn nghiêm.
Chuyện kể rằng đã lâu lắm rồi, có tảng đá lớn trên sườn núi lở xuống, trên đá có chữ Nho, đại ý rằng nơi đây Mẫu đã từng đặt chân đến trong những cuộc du ngoạn của mình. Vì vậy, nhân dân trong khu phố Pò Soài - Nà Pắp đã lập đền thờ Mẫu ngay cạnh tảng đá lớn, mới đầu chỉ là ba gian miếu nhỏ, lâu dần trùng tu, tôn tạo thành đền như ngày nay, chữ gọi là Sài Sơn Linh Từ, tục gọi là đền Mẫu Thượng Soài Sơn.
Ở đây, đặt ra hai vấn đề (mà ngay cả ban trị sự hiện nay cũng đang mơ hồ) cần làm rõ:
Hoặc Mẫu Thượng Soài Sơn là Mẫu Thượng Ngàn được thờ trên núi Soài;
Hoặc Mẫu Thượng Soài Sơn nghĩa là Mẫu đã từng lên núi Soài;



Đền Mẫu Thượng Soài Sơn

Nếu Mẫu Thượng Soài Sơn có nghĩa là Mẫu đã từng lên núi Soài thì phù hợp với truyền thuyết về Liễu Hạnh Công Chúa[1], có chi tiết Mẫu Liễu Hạnh lên vùng biên giới Xứ Lạng. Chuyện kể rằng, sau khi được vua cha (Ngọc Hoàng) phong làm Liễu Hạnh Công Chúa, nàng lại xuống trần lần thứ hai. Vì còn nặng tình duyên, nàng trở lại thăm nom bố mẹ, khuyên bảo chồng là Đào Lang tu chí học hành. Đến khi cha mẹ chồng qua đời, con cái lớn khôn, không còn vướng víu gì, nàng mới đi chu du thiên hạ, gia ân, gia oán, dừng chân ở những nơi núi non danh thắng. Đến Lạng Sơn, thấy bên núi có ngôi chùa phong cảnh hữu tình với những rặng thông xanh cao vút, những khóm nhược lan tươi đẹp nhưng lại bị cỏ lấp dấu chân, bia phủ rêu xanh, tượng Phật bụi mờ ít người qua lại vãn cảnh, Liễu Hạnh không vui. Nàng ngồi tựa gốc cây thông gẩy đàn, cất tiếng hát, ca ngợi thú sơn lâm và đón đợi Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, khi ông vừa đi sứ bên Trung Quốc về. Mượn chuyện văn thơ, đối đáp chữ nghĩa, nàng đã nhắc khéo ông Trạng Nguyên cho tu bổ lại ngôi chùa đẹp nhưng bị bỏ hoang nơi vùng biên ải này. Ngay sau cuộc hội ngộ, Phùng Khắc Khoan liền gọi các phụ lão ở nơi sơn trang đó, giao cho một khoản tiền để tu sửa lại ngôi chùa và đề một câu thơ ở hành lang bên tả rồi ra đi. Câu thơ ấy là: “Tùng lâm tịch mịch phất nhân gia”, nghĩa là rừng rậm yên tĩnh có nhà Phật. Tuy nhiên, cho đến nay, người ta không biết địa danh chính xác của ngôi chùa đó là ở đâu.
Nhưng tôi cho rằng, rất có thể đó chính là Đền Mẫu Thượng Soài Sơn. Vì mấy lý do:
Thứ nhất, Đền Mẫu Đồng Đăng lúc đó là trung tâm tôn giáo - tâm linh của nhân dân vùng Đồng Đăng - Nam Quan, lúc đó nằm giữa một khu vực sầm uất, nên hương khói thường xuyên, không ngớt, không có chuyện cỏ xanh lấp lối, lá vàng rụng rơi được.
Thứ hai, Khu vực Bắc Lệ lúc đó là thuộc đất Bắc Giang, Xứ Lạng chỉ bắt đầu từ Đồng Bành, Chi Lăng trở lên trên, nên Đền Bắc Lệ lúc ấy chưa được kể vào đất Lạng Sơn.
Thứ ba, Đền Mẫu Thượng Soài Sơn có phong cảnh, hình thế rất giống miêu tả trong truyền thuyết kể trên. Đồng thời, tên Đền có thể hiểu là Mẫu đã từng lên núi Soài chơi.
Nếu như vậy, từ sau đó, ngôi chùa được đổi tên thành Đền Mẫu Thượng Soài Sơn và thờ chính là Mẫu Liễu Hạnh.
Đền Mẫu Thượng Soài Sơn cũng có thể hiểu là thờ chính Mẫu Thượng Ngàn - hóa thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số. Ở đây lại có hai truyền thuyết khác biệt về Mẫu Thượng Ngàn, mà có lẽ Mẫu Thượng Soài Sơn là trường hợp thứ hai.
Trường hợp thứ nhất cho rằng Mẫu Thượng Ngàn xuất thân là con gái của Hùng Định Vương (đời Hùng Vương thứ 9) và An Nương Hoàng Hậu, tên là Mỵ Nương[2] Quế Hoa, được thờ chính ở Đền Suối Mỡ - Bắc Giang.
Trường hợp thứ hai có liên quan đến Đền Bắc Lệ - Hữu Lũng, cho rằng Mẫu Thượng Ngàn là Công chúa La Bình, con của Tản Viên Sơn Thánh và Mỵ Nương, tức là cháu ngoại của Hùng Duệ Vương (đời Hùng Vương thứ 18). Do có công giúp đỡ nhân dân cuộc sống yên ổn ấm no nên được Ngọc Hoàng phong là Thượng Ngàn Công Chúa, cho cai quản 81 cửa rừng cõi Nam Giao. Như vậy, việc Mẫu Thượng Ngàn xuất thân là Công chúa La Bình, được thờ ở Đền Bắc Lệ - Hữu Lũng, sau đó là ở Đền Mẫu Thượng Soài Sơn - thành phố Lạng Sơn là có nhiều khả năng hơn so với Mỵ Nương Quế Hoa.



Ban công đồng Đền Mẫu Thượng Soài Sơn

Trong tên gọi của đền, chữ Soài có nguồn gốc tiếng Tày, trong địa danh Pò Soài, nghĩa là ngọn đồi thoai thoải. Nhưng trong tiếng Hán, không có chữ Pò, chữ Soài, nên khi dịch tên Đền ra tiếng Hán phải gọi chệch đi thành Sài Sơn, tức là núi Sài.
Đền được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, ngày nay bao gồm cung chính 3 gian, gian giữa là ban công đồng, trên cùng là Phật bà Quan Âm, rồi đến Đức Vua Cha, Mẫu Thượng Ngàn, Tứ phủ Chầu Bà, Tứ phủ Ông Hoàng; gian bên phải là Đức ông Trần Triều; gian bên trái là cung Sơn Trang. Lên trên núi phía sau cung chính là ban thờ và tượng Phật bà Quan Âm.
Trước cửa đền có đôi câu đối:
一 品 柴 山 龍 虎 伏
三 清 特 地 顯 靈 祠
Nhất phẩm Sài sơn long hổ phục
Tam Thanh đặc địa hiển linh từ



Những cây cổ thụ sân đền (nhìn từ trên núi, nơi có tượng Quan Âm Bồ Tát)

Nếu các bạn tham quan khu danh thắng Nhị - Tam Thanh, ngoài việc vào Động Nhị Thanh - Chùa Tam Giáo, ngắm di họa của Ngô Thì Sỹ, vãn cảnh Chùa Tam Thanh, xem phù điêu Phật A Di Đà, hãy bảo người ta dẫn lên Đền Mẫu Thượng Soài Sơn lễ Mẫu, ngắm cảnh nước non Lạng Sơn tươi đẹp nhé.

Đền cửa Đông - Lạng sơn


Lạng Sơn - mảnh đất địa linh, nhân kiệt với những trầm tích văn hóa theo suốt chiều dài lịch sử nước Việt, với những ngôi đền thiêng ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc của tiền nhân để lại. Trong đó có bốn ngôi đền nằm ở bốn hướng trấn giữ và bảo vệ Đoàn Thành (thành cổ Lạng Sơn xưa), được mệnh danh là “Xứ Lạng tứ trấn”.

Đền Cửa Đông - trấn Đông thành Lạng Sơn.


Theo các tư liệu lịch sử, thành cổ Lạng Sơn (Đoàn Thành) xưa có bốn cổng chính ở bốn hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Tương ứng với bốn cổng này có bốn ngôi đền linh thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ bảo vệ tòa thành bao gồm: đền Cửa Đông (Đông Môn từ); đền cửa Tây (Tây Môn từ); đền cửa Nam (Nam Môn Từ) và đền cửa Bắc (Bắc Môn Từ) được xây dựng khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Các đền đều tọa lạc tại phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn và hướng ra dòng sông Kỳ Cùng.


Ngôi đền thiêng thờ thần sông

Trấn Đông - đền Bạch Đế là một trong bốn ngôi đền thiêng trấn giữ quanh Thành cổ Lạng Sơn, thờ thần Bạch Đế. Thần Bạch Đế hay còn gọi là Quan lớn Thoải phủ, Quan lớn Đệ Tam - người có công giúp vua Hùng Duệ Vương đánh tan giặc xâm lăng, được sắc phong “Bạch Long Hầu Chi Thần”, “Hộ quốc an dân”. Việc thờ phụng này vừa thỏa mãn tín ngưỡng thờ Mẫu (mẫu Thoải) vừa thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta.

Theo sách Đại Nam Nhất Thống chí của Quốc Sử Quán triều Nguyễn chép: “Đền Bạch Đế nằm ở phía Đông thành Lạng Sơn. Địa phận xã Mai Pha thuộc Châu Ôn, thờ Thủy Thần”. Theo các nhà nghiên cứu nhận định và căn cứ vào một số tài liệu ghi chép về đền, cho rằng Đền được xây dựng muộn nhất là vào khoảng giữa thế kỷ XVIII.



Đối tượng thờ chính của Đền là thần Bạch Đế (tức là thờ thủy thần, thần sông, thần rắn), đó là đặc trưng của cư dân nông nghiệp gieo trồng lúa nước thờ tự theo mô típ “ông Cộc – ông Dài” thần sông nước như trong các truyền thuyết của Việt Nam.

Đền là một di tích tôn giáo - tín ngưỡng được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh, cửa chính đền quay hướng chính Đông nhìn ra sông Kỳ Cùng, cổng vào Đền quay mặt hướng chính Tây, trên bức tường sau Đền ở phía tây có trang trí và đắp hai chữ đại tự lớn “Đông Môn”, cổng Đền liền kề ngay đó về phía tay phải. Cấu trúc Đền gồm 3 phần liền nhau: Nghi môn – Chính điện – Tả hữu vu.

Đỉnh cao kiến trúc nghệ thuật

Trải qua thời gian dài với nhiều lần trùng tu, tôn tạo, đến nay, đền vẫn bảo tồn được kiểu kiến trúc nghệ thuật truyền thống và nhiều di vật, cổ vật có giá trị như: 32 pho tượng thánh, 4 hoành phi, 6 đôi câu đối, 2 chuông đại, 2 đôi lọ lộc bình, cây đa cổ thụ 400 năm tuổi…

Vào năm 2013, Đền Cửa Đông được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia. Nói cụ thể hơn thì Đền Cửa Đông là loại hình kiến trúc tín ngưỡng tôn giáo có lịch sử lâu đời trên quê hương xứ Lạng. Ngày nay, ngoài thờ thần sông “Bạch Đế”, đền còn là nơi thờ Mẫu và Đức Thánh Trần. Đây là địa chỉ sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng đặc sắc của nhân dân và là địa điểm du lịch tâm lịch thu hút du khách gần xa.

https://baophapluat.vn/tu-tran-xu-lang-bai-1-tran-dong-den-cua-dong-tho-than-bach-de-post353425.html

Đền cửa Bắc - Lạng Sơn


Là một trong tứ trấn có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Đoàn Thành (thành cổ Lạng Sơn xưa), đền Cửa Bắc nằm ở phía bắc thành cổ, vuông góc giữa 2 trục đường Trần Hưng Đạo - Cửa Bắc của thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng vào khoảng thế kỷ 18 và được xếp hạng di tích Quốc gia năm 2013.





Đền Cửa Bắc nằm trong tứ trấn xứ Lạng có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí Thành cổ Lạng Sơn.


Theo các tư liệu lịch sử, thành cổ Lạng Sơn (Đoàn Thành) xưa có bốn cổng chính ở bốn hướng Đông - Tây - Nam - Bắc. Tương ứng với bốn cổng này có bốn ngôi đền linh thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ bảo vệ tòa thành bao gồm: đền Cửa Đông (Đông Môn từ); đền cửa Tây (Tây Môn từ); đền cửa Nam (Nam Môn Từ) và đền cửa Bắc (Bắc Môn Từ).

Các ngôi đền này đều được xây dựng khoảng cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Các đền đều tọa lạc tại phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn và hướng ra dòng sông Kỳ Cùng.

Cũng như các ngôi đền thiêng trong tứ trấn, đền Cửa Bắc thờ vọng Đức Thánh Trần (Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn) và thờ Mẫu (Mẫu Liễu), Phật (ngài Thiên Thủ Thiên Nhãn). Ngôi đền này đặc trưng cho sự phối thờ tiền Thánh hậu Phật có ở nhiều đền, chùa cổ nước ta.



Kiến trúc của Đền hình chữ Nhị (=) gồm gian Đại Bái (chính điện) ở bên ngoài, gian Hậu Cung ở phía trong. Theo tư liệu “Xã chí Lạng Sơn”. trước đây Đền có nhiều hiện vật quý gồm: 1 tấm bia đá ghi công đức thời Khải Định (1924), 06 tượng thánh bằng gỗ sơn son thếp vàng, 2 nhang án, lỗ bộ, 1 bát nhang cổ bằng sứ, 1 bát nhang đỏ. Hiện nay, tại Đền vẫn còn lưu giữ tấm bia ghi công đức (năm 1924) và có thêm các tượng, đồ thờ tự, ngai (thờ bóng), điện thờ…

Qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, đền Cửa Bắc xưa đã xuống cấp và được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, nay khang trang, đẹp đẽ hơn hơn nhưng vẫn giữ được nét đơn sơ, mộc mạc, cổ kính và linh thiêng.


Cùng với các đền: Cửa Đông, Cửa Tây, Cửa Nam, đền Cửa Bắc có nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ linh khí cho Thành cổ Lạng Sơn xưa. Nay, đền Cửa Bắc là một địa điểm sinh hoạt văn hóa tâm linh để người dân địa phương và du khách gần xa chiêm bái, vãng cảnh.

Đền Tả Phủ - Lạng Sơn


Đền Tả Phủ nằm ở trung tâm phố chợ Kỳ Lừa thuộc phường Hoàng Văn Thụ được xây từ năm Chính Hòa thứ 4 (1683) thờ Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài và được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1993.




Hán quận công Thân Công Tài là người xã Như Thiết, huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang, nay là thôn Như Thiết, xã Hồng Thái huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Xuất thân trong một dòng họ quý tộc có học, nhiều đời làm quan. Ông được trọng dụng, bổ nhiệm lên Lạng Sơn làm Phó tướng nhận chức Đô đốc Đồng tri giúp việc trấn giữ biên thùy. Trong những năm làm quan ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo phòng thủ đoàn thành, giữ gìn biên ải, Thân Công Tài đã nhận thấy tầm quan trọng cũng như vị trí thuận lợi trong việc mở mang thương trường giao lưu buôn bán của Lạng Sơn và chính ông là người khởi xướng trong công cuộc này.

Nhân dân ở đây vẫn truyền tụng rằng, ông là người có công san đồi, bạt đất mở mang thành 7 con đường và lập nên 7 phường cho phố chợ Kỳ Lừa, tạo cho trấn lỵ Lạng Sơn một khu buôn bán phồn vinh, tấp nập, giúp cho dân chúng trao đổi hàng hóa thông thương xuôi ngược và qua lại biên giới. Nhờ đó mà 1 vùng đồi gò hoang vu rậm rạp, dân cư thưa thớt ở mạn Bắc Đoàn thành đã nhanh chóng trở thành 1 điểm quần cư của nhiều dân tộc, 1 cửa ngõ buôn bán sầm uất thu hút cả thương nhân ngoại quốc vào kinh doanh. Và cũng nhờ đó mà người đời sau được biết đến phố chợ Kỳ Lừa, một địa danh mà sau này trở nên nổi tiếng ở vùng ải bắc.

Lịch sử lưu danh truyền hậu thế

Thương trường khai thị Hán Quận Công

Có nghĩa là: Lịch sử lưu danh truyền muôn thủa

Mở chợ gây dựng thương trường là Hán quận công.

Hán Quận Công Thân Công Tài đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của cha ông từ bao đời nay, đó là: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Việc ông mở ra phố chợ Kỳ Lừa của trấn lị Lạng Sơn đã chứng tỏ một tầm nhìn chiến lược về kinh tế, từng bước biến thị trấn biên ải xa xôi trở thành nơi đô thị buôn bán giao lưu hàng hóa nhộn nhịp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Ngày nay tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nên sự thịnh vượng để yên dân nơi phên dậu của Tổ quốc.

Đền Tả Phủ có cửa chính quay về hướng Tây, nằm trên thế đất cao tạo nên vẻ uy nghi, linh thiêng với kiến trúc gồm 2 tòa, kết cấu theo lối chữ Công. Nối liền giữa hai tòa là một khoảng sân nhỏ có tấm bia đá tạo dựng năm Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (năm 1683); bia có tiêu đề “Tôn sư phụ bi” (bia ghi việc tôn thờ người làm thầy, làm cha), ghi tạc công lao của Thân Công Tài với Lạng Sơn và việc mở mang thương trường buôn bán tại đây.

Ngoài ý nghĩa lịch sử về lưu niệm danh nhân lịch sử Thân Công Tài, nơi đây còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Du khách thập phương nhớ đến xứ Lạng không thể không nhớ đến một lễ hội xuân lớn ngay giữa chợ Kỳ Lừa, đó là lễ hội đền Tả Phủ - Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng hàng năm. Một lễ hội có quy mô lớn được nhân dân các dân tộc thành phố Lạng Sơn và du khách gần xa thành kính dâng hương tưởng nhớ Hán Quận Công Thân Công Tài và cầu cho “Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, kinh doanh buôn bán phát lộc, phát tài”.


Lễ hội tại Đền Tả Phủ

Trải qua thời gian, đến nay di tích đền Tả Phủ đã xuống cấp. Được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2019 Ban quản lý Đền triển khai phương án tôn tạo ngôi đền bằng hình thức xã hội hóa. Đây là hoạt động hết sức có ý nghĩa đối với cán bộ và nhân dân trên địa bàn phường cũng như du khách thập phương, với mong muốn giá trị của ngôi đền luôn được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.

Để hoàn thành việc trùng tu di tích, Ban quản lý đền mong muốn nhận được sự phát tâm ủng hộ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, doanh nhân, các tổ chức, cá nhân bằng tình cảm cao đẹp của mình chung tay, góp sức, ủng hộ vật chất, kinh phí, tư liệu lịch sử để góp phần hoàn thành việc tôn tạo đền.

Đền cửa Tây

(PLVN) - Tọa lạc ở phía tây Thành cổ Lạng Sơn, nay là đường Trần Hưng Đạo (quốc lộ 1A cũ Lạng Sơn - Hà Nội) của thành phố Lạng Sơn, đền Cửa Tây là một trong 4 ngôi đền trấn giữ Đoàn Thành và là nơi thờ vọng Đức Thánh Trần ở xứ Lạng. Di tích lịch sử này đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2013.

Di tích đền Cửa Tây.Di tích đền Cửa Tây.

Đền Cửa Tây có tên chữ là Ngũ Nhạc Linh từ, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII. Ngôi đền thiêng nằm bên cửa sông Kỳ Cùng thơ mộng, cũng như 3 ngôi đền được mệnh "tứ trấn" xứ Lạng, đền Cửa Tây với tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu (mẫu Thoải - nữ thần sông nước phù hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa). Ngoài ra đây còn là nơi thờ vọng Đức Thánh Trần -vị tướng tài đời Trần được nhân dân phong Thánh, người ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông và các tướng nhà Trần. 

Theo truyền thuyết dân gian, mẫu thoải phủ là con gái út của Bát Hải Long Vương, rẽ nước biển lên trần dạo chơi. Nhưng ngày kia vua cha cho đóng cửa biển nàng công chúa thủy phủ này không còn đường về thủy cung nên đã ở trên trần lịch kiếp tu nhân tích đức từ cô bé thoải dần trưởng thành xinh đẹp được phong là công chúa thủy phủ rồi đức hạnh ngày càng cao nên được mệnh danh là Mẫu Thủy Phủ - mẹ của người dân miền sông nước. 

Vì đức độ vì thương yêu con dân nên bà được tôn phong là Đệ Tam Thánh Mẫu trong đức thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước, giúp nghĩa quân đánh thắng giặc trên đường thủy. Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa. Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để làm gió yên, mưa tạnh. Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái.

Lạng Sơn tứ trấn – Trấn Tây thờ vọng đức Thánh Trần ảnh 1
Đền Cửa Tây.  

Tại đền Cửa Tây, tòa thứ nhất là điện thờ các vị Thánh Mẫu với bàn thờ trang trọng, linh thiêng. Tòa thứ hai thờ Trần Hưng Đạo kiến trúc theo kiểu chữ Đinh thờ Đức Thánh Trần và các vị tướng tài như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu cùng các Hoàng tử và Công chúa.

Hiện nay trong đền vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: Hoành phi, câu đối, hệ thống tượng thờ, chuông… Ngoài ra, Đền còn có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu. 

Đền Cửa Tây ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, còn là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân địa phương cũng như khách thập phương. Lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Vào ngày này, các gia đình, các Tổ liên gia trên địa bàn bày biện, sắm sửa các mâm lễ dâng lên đền để cầu cho Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.

Đền Cửa Tây cùng với “Tứ trấn” và Thành cổ Lạng Sơn xứng đáng là một điểm di tích lịch sử văn hóa hứa hẹn du khách phương xa khi đặt chân đến thăm xứ Lạng không thể không đến nơi này.

Người dân thường đến cầu Đức Thánh Trần về đường công danh sự nghiệp. Nếu có dịp đến thăm đền bạn sẽ thấy bên ngoài có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu.

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...