Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019

Sự tích Quan Hoàng Bát

 Sự tích Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao đất Cao Bằng

Quan Hoàng Bát là vị thánh hoàng thứ tám trong hàng Thập Vị Thánh Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Và người anh hùng Nùng Chí Cao đất Cao Bằng được cho là hiện thân của Quan Hoàng Bát, ông là vị anh hùng nổi tiếng được nhân dân trong vùng đặc biệt là người Tày Nùng phụng thờ do đã có công đuổi đánh quân Tống bảo vệ biên cương bờ cõi, sự bình yên cho nhân dân ta.

“Gương anh dũng ngàn xưa lưu để
Đất Cao Bằng tú khí chung linh
Trời Nam có Đức Thánh linh
Họ Nùng – Đệ Bát anh linh tuyệt vời”

Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Sự tích Quang Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Trong số Thập Vị Thánh Hoàng của Tứ phủ, Quan Hoàng Bát xếp hàng thứ tám, trước Quan Hoàng Chín Cờn và sau Quan Hoàng Bảy Bảo Hà, ngài là một nhân vật có thật trong lịch sử, là một vị tướng tài,  anh hùng dân tộc của dân tộc Tày – Nùng ở miền đất Cao Bằng thượng cổ.  Quan Hoàng Bát Nùng tên thật là Nùng Chí Cao, ngài sinh sống vào khoảng thế kỷ XI dưới thời vua Lý Thái Tông. Ông là con thủ lĩnh Nùng Tôn Phúc và bà A Nùng. Năm Tân Tỵ, vua Lý Thái Tông cử một tướng ẩn danh lên thuyết phục Nùng Trí Cao không theo nhà Tống. Ngài được người Tày ở vùng đất Quảng Nguyên, tức Cao Bằng ngày nay suy tôn làm thủ lĩnh. Sau này, ông còn được nhà Lý phong làm Thái Bảo tướng quân và giao trọng trách trấn giữ, bảo vệ bình an cho vùng đất biên cương Cao Bằng.

Trong cuộc đời chinh chiến của mình, vị tướng quân này đã lập nhiều chiến công hiển hách, lãnh đạo quân và dân Quảng Nguyên chống lại nhiều cuộc tấn công quy mô của giặc Tống.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 của quân và dân Đại Việt, thủ lĩnh Nùng Trí Cao đã phối hợp ăn ý với quân đội triều đình cúng tấn công đánh phủ đầu kho lương thảo của giặc ở Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu thuộc đất lưỡng Quảng, sau đó rút về chỉ huy quân và dân Cao Bằng lập phòng tuyến chống giặc ngoại xâm. Khi giặc Tống xâm phạm bờ cõi Đại Việt vào năm 1075, Ông Hoàng Bát Nùng đã anh dũng lãnh đạo quân dân địa phương chiến đầu ngăn bước tiến của địch, tạo thêm thời gian cho quân đội triều đình xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông nhiều lần bị thương nặng nhưng cũng lập được nhiều chiến công vang dội, góp phần không nhỏ cùng quân và dân Đại Việt làm nên chiến thắng hiển hách vào mùa xuân năm 1077. Để tưởng nhớ công lao to lớn đó của ông, sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập đền thờ ông và suy tôn ông là Quan Hoàng.


Theo “Đại Việt sử kí toàn thư”, Nùng Trí Cao là con của ông Nùng Tôn Phúc – Thủ lĩnh châu Thảng Do.

  • Năm 1038, Nùng Tôn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Xương, xưng ” Chiêu Thánh hoàng đế”, lập nước Trường Sinh, phong vợ làm Minh Đức hoàng hậu, phong con cả Trí Thông làm Điền Nha Vương, đồng thời sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì.

  • Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đem quân đánh Nùng Tôn Phúc, bắt ông và con trai cả về kinh xử tử.Nùng Chí Cao cùng mẹ chạy đến động Lôi Hỏa, phía Tây Bắc Cao Bằng thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.

  • Năm 1041, hai mẹ con ông từ động Lôi Hỏa về chiếm Thảng Do, chiêu tập lực lượng, ;lập nước ĐẠI LỊCHTriều đình nhà Lý mang quân lên đánh, bắt Nùng Trí Cao về kinh đô nhưng không trị tội mà còn cho ông coi giữ châu Thảng Do, đồng thời cai quản thêm các động Lôi Hỏa, Bình An, châu Tư Lang và được phong làm châu mục Quảng Nguyên.

  • Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, phong cho ông tước Thái Bảo, một chức quan cao cấp thời Lý.

  • Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở đông Vật Ác ( thuộc đất Tống).

  • Năm 1050, Ông chiếm được động Vật Dương ( thuộc đất Tống), lập nước NAM THIÊN, đặt hiệu Cảnh Thụy.

  • Năm 1052, sau khi dâng biểu xin cống vua Tống không được, ông đã dẫn 5000 quân tiến đánh Ung Châu, sau đó xưng NHÂN HẬU HOÀNG ĐẾ, đỏi niên hiệu là KHẢI LỊCH, đặt quốc hiệu ĐẠI NAM.

  • Năm 1053, Địch Thanh viên tướng nhà Tống, dẫn quân đánh Nùng Trí Cao, nhà Lý sai Vũ Nhị tiếp ứng, nhưng do tình thế không cứu vãn nổi nên cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao chấm dứt.

Nhắc đến Ông Hoàng Bát Nùng, nhiều người thường bị nhầm lẫn với Ông Hoàng Bắc Quốc vì hai ông đều được gọi là Quan Hoàng Bát và đều là những vị tướng tài có thật trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, thực tế ông Hoàng Bắc Quốc lại là người đất Kinh Bắc và hoàn toàn không có liên hệ với ông Hoàng Bát Nùng.

Đền thờ của ông Hoàng Bắc Quốc cũng nằm tại Bắc Giang, cách xa đền ông Hoàng Bát Nùng tới tận trăm cây số. Vì thế du khách đi lễ đền Ông Hoàng Bát cần phân biệt rõ hai vị quan Hoàng này.

Hầu giá Quan Hoàng Bát Nùng

Quan Hoàng Bát Nùng là một trong các thánh hoàng rất ít khi về ngự đồng. Chỉ những người mang căn lục bộ mới có thể hầu Ngài. Khi về ngự đồng, ngài thường mặc y phục màu vàng, khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt chân ghệt tay, mạng chéo, làm lễ tấu hương, khai quang, múa đôi trùy đồng (múa cờ, kiếm) và múa võ. Khi ngự đồng ông cũng hút tẩu và thuốc cuốn.

Đền thờ Quan Hoàng Bát

Thái Bảo Nùng Chí Cao là một biểu tượng dũng tướng của Việt nam và là niềm tự hào của người dân Cao Bằng. Đền thờ chính thờ ngài là Đền Kỳ Sầm gần thị xã Cao Bằng. Ngài hầu Mẫu thượng đồng đẳng, làm việc lục bộ nội chính.

Tiệc Quan Hoàng Bát

Chính tiệc là ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm.

Bản văn Quan Hoàng Bát

Gương anh dũng ngàn xưa lưu để

Đất Cao Bằng tú khí chung linh

Trời nam có đức thánh linh

Họ Nùng đệ bát hùng anh tuyệt vời

Giận bạo chúa bao đời áp bức

Thù ngoại xâm Tống giặc cường hung

Thề rằng không độ trời chung,

Tuốt gươm quét sạch thù trong giặc ngoài.

Dù trăm trận mưa rơi sấm giật

Đôi trượng đồng dạy đất trời long

Bát Nùng nối nghiệp gia phong

Noi gương tiên tổ – họ Nùng – Trí Cao.

Ông Bát Nùng ra vào sinh tử

Trượng tung bay tuyết phủ hoa khai

Sá gì đạn lạc tên rơi

Trên đời hồ dễ mấy ai anh hào.

Thân bách chiến ra vào sinh tử

Đôi thần trùy nhẹ tựa hồng mao

Trần hoàn nhẹ gánh gian lao

Cõi trời do sổ Thiên Tào có tên.

Rước ông Bát về miền tiên giới

Đất Cao Bằng nhớ lại công ơn

Nhân dân thờ phụng khói hương

Nhớ người tráng sĩ hiên ngang anh hùng.

Thưở niên thiếu kiếm cung yên ngựa

Sinh vì đời, thác trợ muôn dân

Oai linh lẫm liệt thánh thần

Một lòng vì nước vì dân vì đời.

Gương anh khí sáng ngời muôn thuở

Trí hào hùng rạng rỡ non sông

Vinh quang thay giòng giống Lạc Hồng

Ngàn thu còn nhớ ông Bát Nùng Trí Cao

Thơ Lý Bạch anh hào ví sánh

Rượu Lưu Linh buồn tính vui say

Thừa nhàn bạch định thiên khai

Cờ thiên đế thích mộ tài tri âm

Kèn sáo trúc bổng trầm họ Lá

Lục huyền cầm Tử Bá nam xuân

Liên tâm ba chén tẩy trần

Thanh hương bình ngọc kỳ trân đượm mùi

Hồn quốc túy ấm lòng quân tử

Thú yên hà duyên nợ núi sông

Ngàn xưa tuyết nguyệt hoa phong

Thuốc lào Tiên Lãng ấm lòng thế gian

Khói thoảng ngát hương lan thú thảo

Thú phong lưu Vĩnh Bảo – Hải Đông

Sập vàng điếu ống thung dung

Ngự về trần thế đèn lồng kiệu hoa

Ai thành kính tại gia phụng sự

Thỉnh Ông về giá ngự đền trung

Xưa nay tắc tự hữu công

Dâng văn kính thỉnh Ông Bát Nùng Trí Cao.

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2019

Sự tích Quan Hoàng Bảy

 7 Sự tích Quan Hoàng Bảy vị thánh hoàng lừng danh đất Bảo Hà

Quan Hoàng Bảy là vị thánh hoàng nổi tiếng lừng lẫy đất Bảo Hà, Vậy Quan Hoàng Bảy là ai ? sự tích Quan Hoàng Bảy như thế nào và đền chính thờ Quan Hoàng Bảy ở đâu ? hy vọng qua bài viết này giúp bạn đọc có thể tự trả lời cho các câu hỏi được quan tâm này.

Hoàng Nhắn ai lên đất bảo Hà
Nếm mùi phong nguyệt ấy là thần tiên
Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích
Hoàng Bảy Bải Hà thực đích trung quân
Sinh thời làm tướng trung thần
Mán nùng sơn trại muôn dân quy đầu

Văn khấn Quan Hoàng Bảy

Điện chính thờ Quan Hoàng Bảy trên Đền Bảo Hà


Quan Hoàng Bảy là một nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam, còn trong Tín ngưỡng thờ Mẫu, ông là một trong những vị thánh được người trong và ngoài đạo nhắc đến nhiều nhất. Trong Tứ phủ thánh Hoàng, ngài đứng thứ bảy sau Quan Hoàng Lục An Biên và đứng trước Quan Hoàng Tám Bát Nùng. Ngài là một trong mười vị Quan Hoàng trong Tứ phủ Quan Hoàng được nhân dân  tôn kính phụng thờ hầu khắp các đền điện phủ trong hệ thống thờ Mẫu đều có ban thờ Ngài.

  • Tên húy của ngài: Nguyễn Hoàng Bảy.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.

Sự tích Quan Hoàng Bảy

Sự tích Quan Hoàng Bảy Bảo Hà có khá nhiều dị bản khác nhau. Tuy nhiên, theo các tài liệu có sự đáng tin thì sự tích về Quan Hoàng Bảy được kể lại như sau:

Quan Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh vua, ông giáng hạ phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, vào cuối thời Lê.  Vào triều Lê Cảnh Hưng (1740- 1786), tại vùng Bảo Hà và biên cương phía Bắc, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử viên tướng thứ bảy họ Nguyễn chính là Quan Hoàng Bảy lên trấn thủ vùng Quy Hoá. Danh tướng họ Nguyễn đưa đội quân tiến dọc sông Thao đánh đuổi bọn giặc cỏ, giải phóng Khảu Bàn và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn, cũng vì lý do này dân gian gọi ông là Quan Hoàng Bảy Bảo Hà.

Đối với giặc ngoại xâm, tướng Nguyễn Hoàng Bảy đánh đâu thắng đó, phá tan thế giặc ngoại xâm. Đối với nội bộ, tướng Nguyễn Hoàng Bảy đã có công thống nhất các thổ ti, tù trưởng, thổ hào quanh vùng đoàn kết quanh ông thanh một khối đoàn kết thống nhất. Sau đó thống lĩnh quân thủy và quân bộ tiến đánh giặc ở Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hoá (Yên Bái, Lào Cai ngày nay). Tại đây ông đã tổ chức các thổ ty, tù trưởng luyện tập binh sỹ… và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp.

Sự tích Quan Hoàng Bảy

 

Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông Hồng. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội.

Sau này khi hiển linh ông được giao quyền trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn hết mực hộ quốc an dân, ông luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Quan Hoàng Bảy Bảo Hà”. Còn đồng bào các dân tộc Kinh, Tày, Dao… thì tôn thờ ông là vị nhân thần. Ông đi vào cõi tâm linh các dân tộc và hiện thân trong các lễ hội xuống đồng vào ngày Thìn tháng Giêng, hóa thánh vào hệ thống Thánh Hoàng trong Tín ngưỡng Thờ Mẫu.

Đền thờ Quan Hoàng Bảy ở đâu ?

Đền chính thờ Quan Hoàng Bảy là ngôi đền Bảo Hà được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Năm 1977, đền Bảo Hà được chứng nhận là di tích lịch sử quốc gia.

Đền Bảo Hà chính thờ Quan Hoàng Bảy

Cổng đền Quan Hoàng Bảy Bảo Hà

Ngôi đền cách thành phố Lào Cai 60km và cách ga xe lửa Bảo Hà 900m, hiện đã được tu sửa để thuận tiện cho du khách hành hương. Phong cảnh nơi đây vô cùng thơ mộng, bình yên, rừng núi bao quanh xanh một màu. Đối diện với dòng sông Hồng, lưng tựa vào núi, ngôi đền này được cho là mang phong thái ung dung đĩnh đạc của quan Hoàng Bảy. Cũng là di sản chứng minh cho sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc văn hóa truyền thống với quan cảnh thiên nhiên vĩ đại.

Bản văn Quan Hoàng Bảy

Văn Quan Hoàng Bảy

Gió nam thoảng đưa hương bay ngào ngạt

Bóng ác tà đã gác non tây

Trăng in mặt nước vơi đầy

Bảo Hà có tích xưa nay còn truyền

Quan Hoàng Bảy trần miền Băc địa

Hợp binh hùng lục thuỷ Thao Giang

Quân cơ mưu lược luận bàn

Doang trung thường có hai hoàng vào ra

Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà chính vị

Cùng tướng công đệ nhị Hoàng Hai

Can qua dâu bể biến dời

Anh hùng xưa đã ra người cung tiên

Nhớ công đức lập đền phụng sự

Thổ, Mán, Nùng tiên nữ dâng hoa

Thú vui điếu khách bàn trà

Phong lưu thuốc cống Bảo Hà dâng ông

Hoàng hoa tửu khăn hồng gối xếp

Ngự tính tình phong nguyệt hoạ ca

Nhắn ai lên đất Bảo Hà

Nếm mùi phong nguyệt ấy là thần tiên

Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích

Quan Bảo Hà thực đích trung quân

Sinh thời làm tướng trung thần

Tấc lòng yêu nước thương dân hãy còn

Dẫu bể cạn non mòn cũng quyết

Thử ra tài cho biết oai danh

Bao phen lẫm liệt tung hoành

Định an xã tắc đề binh cõi ngoài

Đất Lào Cai là nơi dụng võ

Quyết ra tay đội ngũ tiến công

Biên cương súng nổ đùng đùng

Sa trường sương núi máu sông chẳng nề

Đem quân về Thất Khê phòng thủ

Đền Bảo Hà lạc thú huê viên

Mãn tuần chiếu hạc hồi thiên

Tấm thân thoát lánh nghiệp duyên cõi trần

Bỗng một trận sầu vân ám kết

Hiện chân hình dạo Bắc hết Nam

Vui cùng nước biếc trăng ngàn

Tốt tươi quả lạ trăng vàng đìu hiu

Độ dân xã ngày Nghiêu tháng Thuấn

Cõi Việt Nam Bắc trấn oai danh

Từ bi cải dữ làm lành

Chọn ngươi nữ tú nam thanh chấm đồng

Kẻ xuôi ngược dưới sông trên bộ

Ai khẩn cầu tế độ thì qua

Hoàng về trắc giáng điện toà

Hộ trì đệ tử vinh hoa thọ trường.

Bài văn phú về Quan Hàng Bảy

Trần ai tri kỷ

Khách tài tình hồ dễ mấy ai hay

Cõi nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày

Say cũng luỵ không say thời cũng tục

Khoảng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả trả vay

Trái càn khôn hun đúc vững bền tay

Kho vô tận không xoay mà vẫn đủ

Giáo trăm trận xông pha ngoài huyệt hổ

Khách tài tình còn nợ thú phong lưu

Bóng hoa đăng soi tỏ mặt anh hào

Dẫu khanh tướng cũng siêu siêu mùi thế vị

Ai đã biết trần ai tri kỉ

Có hay lòng tráng sĩ lúc đêm xuân

Sáo vi vu gió đục mây vần

Cho bõ lúc tang bồng non với nước

Gió xuân thổi hương bay ngào ngạt

Vẳng cung đàn khúc hát gợi hồn xuân

Tài tình hỡi khách thi nhân

Vậy có thơ rằng:

Trù hoạch quân cơ tạm đắc nhàn

Nung gan thành sắt luyện tiên đan

Vi vu sáo trúc trời mây khói

Kỳ cục thâu canh đất nổi hoàng

Tuệ nhật sáng soi lòng dũng kiệt

Cương thường nặng gánh dạ sắt son

Ấy mùi phong nguyệt là thế thế

Giục ả phù dung Cuốc gọi hồn

Nẩy kiều:

Đượm mùi phong nguyệt nước non non

Đê mê quốc tuý quốc hồn xưa nay

Phù dung hồn hiện đau đây

Dường như ngọn cỏ cành cây la đà

Hay còn đắm nguyệt say hoa

Mau ra tiêm thuốc pha trà Quan Hoàng Bảy xơi

Ông bảy là:

Con Vua Thượng Đế Đức Vua cha

Giáng tại sơn lâm trấn Bảo Hà

Diện mạo hồng hào tươi vẻ ngọc

Dung nghi tươi tốt khác nào hoa

Khi vui cung kiếm khi đàn hát

Nhã thú nhã yên lúc ẩm trà

Say thơ say phú say câu hát

Say nợ tang bồng tỉnh lại say

Say tình non nước câu kim cổ

Say với non sông chuyện tháng ngày

Khách trần hồ dễ ai hay

Tang bồng hồ thỉ hẹn ngày vinh hoa

Tuyết trắng trăng trong ,hoa thơm gió mát

Mượn cung đàn câu hát,diễn hồn thơ

Man mác không gian ,hương đưa khói toả

Chí tang bồng muôn ngả khắp mọi nơi

Trong vũ trụ rộng không thế giới

Giấc mơ màng cõi ấy bồng lai

Cảnh u nhàn tùng cúc trúc mai

Nơi tĩnh mịch thú riêng người biết thú

Nâng chén rượu ngâm câu thơ cổ

Phải chăng hồn Lý, Đỗ còn đây

Rượu bồ đào,nhấp cạn chưa say

Trà long tỉnh ,hương bay thoang thoảng

Hát nhịp một:

Nhắn ai lên đất Bảo Hà

Nếm mùi phong nguyệt đó là cảnh tiên (Xáng u xáng u lưu phàn)

Hỏi rằng mói gặp đào nguyên

Yên hà mới gặp cảnh tiên nơi phàm trần (Xáng u xáng u lưu phàn)

Cỏ cây hoa lá tần ngần

Hoa đào năm ngoái mười phần kém xa (Xáng u xáng u lưu phàn)

Phàm trần phút gặp người tiên

Lạ thay Lưu,Nguyễn cũng duyên tình cờ (Xáng u xáng u lưu phàn)

Cung trăng ai hẹn bao giờ

Vì đường đi hái thuốc tình cờ gặp tiên (Xáng u xáng u lưu phàn)

Lâng lâng rũ sạch ba nghìn

Một ngày đệ tử cũng duyên nợ nhiều (Xáng u xáng u lưu phàn)

Giang tay mở khoá động đào

Rẽ mây cho tỏ lối vào Bảo Hà Sơn (Xáng u xáng u lưu phàn)

Non xanh ai đúc nên bầu

Trần gian ai dễ được hầu mà theo (Xáng u xáng u lưu phàn)

Xanh xanh toà đá phủ rêu

Ai người có phúc được theo Ông Bảy Bảo Hà (Xáng u xáng u lưu phàn)

Văn Thập nhị tiên nàng hầu Quan Hoàng Bảy

Lệnh sai thập nhị tiên nàng

Cô nào việc ấy sửa sang ra hầu

Cô Cả pha nước trà tàu

Sơn lâm vừa ý gật đầu ban khen

Cô Đôi dâng bộ khay đèn

Xe ngà tẩu sứ móc tiêm nạm vàng

Cô Ba dâng hộp thuốc ngang

Thế là vừa ý ông Hoàng sơn lâm

Cô Tư đốt đỉnh nhang trầm

Ngọn đèn khêu tỏ tay cầm móc tiêm

Cô Năm dâng hộp bánh nguyên

Kẹo lạc thuốc cống, cảnh tiên ai bì

Cô Sáu tính nết nhu mì

Dâng con tuấn mã, Hoàng đi chấm đồng

Cô Bảy nảy khúc đàn thông

Miệng ca tay múa năm cung nõn nà

Cô Tám dâng chiếc lược ngà

Hai tay chải chuốt thật là khéo thay

Cô Chín yểu điệu ai tày

Ngày ngày dâng một đôi giày hầu ông

Cô Mười thắt đáy lưng ong

Canh ba giờ tí lồng đèn bước ra

Cô Mười Một quạt nước pha trà

Ấm tiên bình ngọc,tay ngà dâng lên

Cô Mười Hai múa lượn sênh tiền

Mười hai tố nữ đôi bên rõ ràng về trắc giáng bản đền

Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường

Tiệc Quan Hoàng Bảy

Ngày tiệc chính của Quan Hoàng Bảy là ngày 17/7 âm lịch. Vào ngày này và nhất là dịp tháng 7 âm lịch, ở đền Bảo Hà luôn tập nập du khách thập phương đến dâng hương để lễ Quan Hoàng Bảy Bảo Hà cầu tài cầu lộc.

Hầu giá Quan Hoàng Bảy

Quan Hoàng Bảy là vị thánh hoàng thường hay ngự về đồng nhất trong Thập vị Quan Hoàng, cũng bởi vì trong hàng Tứ Phủ Quan Hoàng Bảy được Mẫu giao chấm lính nhận đồng.

Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng.

Hầu giá Quan Hoàng Bảy

Đến giá Quan Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi mời thuốc lá nghe văn, ban tài phát lộc cho thanh đồng đệ tử rồi xe giá hồi cung.

Sự thật về tiếng oan Quan Hoàng Bảy ăn chơi

Ngay nay có nhiều người xin lô đề trong giá ông Hoàng Bảy, thậm chí đến đền Bảo Hà cúng lễ để xin số đề, hay dâng cả thuốc phiện đèn bàn trong lễ ông. Điều này là hoàn toàn sai trái, thế nhân hãy thanh tỉnh nhớ lấy lời dặn của Ông:

Chữ cương thường treo cao giá ngọc
Chữ công dung tứ đức khuyên di

Hay:

Ai mất chữ Tâm thời tội phải mang
Lưới trời ở khắp bốn phương
Hại nhân nhân hại khôn đường thoát thân

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Hãy trả lại sự linh thiêng cho Quan Hoàng Bảy Bảo Hà để hiểu rõ về vấn đề này.

 

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

TỨ PHỦ THÁNH CẬU

 

TỨ PHỦ THÁNH CẬU

        Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cậu đứng sau Ngũ Vị Tôn Quan, Tứ Phủ Thánh Chầu, Tứ Phủ Quan Hoàng, Tứ Phủ Thánh Cô.
      Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu. Các Thánh Cậu là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹ, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng. Thân thế, thần tích về các Thánh Cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu hầu như không có tài liệu ghi chép lại.
       Tứ Phủ Thánh Cậu về quy định thì có 12 Cậu, nhưng việc xác định các cậu được thờ chính ở những đền nào thì không cụ thể. Thường thì các cậu ngự tại Lầu Cậu tại các đền phủ. Trong lầu cậu thường có thể thờ tượng một cậu hay nhiều cậu. Cậu hầu ai trong đền thì hầu như không có sự tích như các cô bé. Chính thế, cậu nào ngự ở đền phủ nào thì được gọi là cậu bản đền của đền phủ đó.
       Đền thờ riêng của các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu hầu như rất ít so với đền thờ các cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Trong Đạo Mẫu, hình tượng các cậu mờ nhạt hơn rất nhiều so với các cô. Thậm chí khi hầu đồng, các cô vẫn được hầu nhiều hơn, các cậu luôn hầu sau các cô. Cũng có thể việc này là do ảnh hưởng văn hóa Mẫu hệ từ thời thượng cổ.
        Các cậu thường hầu cận các Quan Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng và khi đó tên các cậu được đi theo tên ngôi thứ của các Quan Hoàng và chính là Cậu Bản Đền. Ví dụ: Đền Quan Hoàng Bơ Phủ có Cậu Hoàng Bơ Phủ. Tuy nhiên, tại các đền thờ Mẫu, thờ Cô, thờ Chầu hay thờ các Quan Lớn trong Ngũ Vị Tôn Ông thì Lầu Cậu thường là thờ Cậu Bé Bản Đền.
       Các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu thường được coi là các Hoàng Tử nơi chốn thiên cung được Vua Cha Ngọc Hoàng cử xuống hạ giới để giúp dân an cư, lạc nghiệp hay dẹp giặc và được đón về trời khi còn tuổi thiếu niên, hoặc được đưa xuống hầu cận các vị quan. Nhưng đôi khi các cậu được coi là các cậu hầu cận một vị quan nào đó, hay nổi danh vì giúp dân, giúp nước chứ không cứ là Hoàng Tử chốn thiên cung được phái xuống. Ví dụ: Cậu bé Trường Sinh nơi Đền Cậu Tây Thiên.
      Các cậu thường hay giáng đồng là các cậu: Cậu Hoàng Cả, cậu Hoàng Đôi, Cậu Hoàng Bơ, Cậu Hoàng Tư, Cậu Bé. Còn các cậu khác hầu như không giáng đồng.

Hầu giá Cậu Hoàng
        Trang phục của các Cậu khi giáng hầu thường giống nhau: Áo cánh, đầu vấn khăn đầu rìu, chân quấn xà cạp, đi hài thêu hoa...và chỉ khác nhau ở mầu áo theo ngôi vị mà thôi. Trong diễn xướng, các cậu thường múa hèo, múa gậy, bắn cung, nhảy ngựa...và hò reo vang lừng. Riêng Cậu Bơ Thoải thì có chèo đò, hay giăng lưới bắt cá.
         Các Thánh Cậu là ngôi thấp nhất trong Tứ Phủ, và cũng rất ít người biết đến các Cậu. Rất ít các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu được thờ riêng một đền phủ.
       Nổi tiếng nhất trong Tứ Phủ Thánh Cậu có lẽ chỉ có: Cậu bé Đồi Ngang ở Phủ Đồi Ngang. Cậu bé Đồi Ngang được coi là con của Thánh Mẫu Liễu Hạnh khi Mẫu giang sinh lần thứ ba. Ngoài ra, có thể kể đến Cậu bé Lệch ở Cung Mẫu tại đền Trần Triều ở khu du lịch tâm linh đền Suối Mỡ.

Sự tích Quan Hoàng Lục

Sự tích Quan Hoàng Lục 

Quan Hoàng Lục là vị quan hoàng thứ sáu thuộc hàng Thập Vị Quan Hoàng, ngài là con trai thứ sáu của vua Cha Bát Hải Động Đình. Sự tích về Quan Hoàng Lục không được lưu lại chính xác, một trong số đó câu chuyện về An Biên Tướng Quân được cho là hiện thân của Quan Hoàng Lục là được lưu truyền rộng rãi hơn cả.

Trong hàng tứ phủ Quan Hoàng, Quan Hoàng Lục ngài đứng sau Quan Hoàng Năm và đứng trước Quan Hoàng Bảy

 Sự tích Quan Hoàng Lục và câu chuyện về An Biên tướng quân

Nếu Thái Bảo Bát Nùng (Quan Hoàng Tám Nùng Chí Cao) được xem là tù trưởng ông vua người Nùng, thì An Biên Tướng quân hiện thân của Quan Hoàng Lục lại được xem là tù trưởng ông vua của người Tày cai quản vùng đất Cao Bằng ngày nay.

Tương truyền Quan Hoàng Lục giáng sinh ngày 10/8/1038 tại xã Lũng Đính, châu Thượng Lang (nay là xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trong một gia đình mấy đời làm tù trưởng. Đến măm 18 tuổi, ngài được cử làm thổ tù vì Quan Hoàng Lục là người khảng khái, trọng nghĩa, khinh tài luôn đem tài sản chia cho dân nghèo, mọi người trong vùng đều quí mến ông. Năm 1053 (thời vua Lý Thái Tông), trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất, Hoàng Lục phối hợp với tướng quân Nùng Chí Cao chủ động đem quân đánh vào đất Tống, đột phá các châu: Châu Quý, châu Uy, châu Khang, châu Đăng, châu Ngô, châu Đoan, châu Hình… gây thiệt hại lớn cho quân Tống.

Quân của Hoàng Lục và Nùng Chí Cao đi đến đâu đều được nhân dân ủng hộ. Khi rút về, Hoàng Lục tiếp tục chuẩn bị lương thực, lực lượng để đối phó với quân Tống.

Đến năm 1075 (thời vua Lý Nhân Tông), quân Tống tiến hành xâm lược Đại Việt lần thứ 2 với mục tiêu phá vỡ tuyến phòng thủ ở Quảng Nguyên. Viên tướng của nhà Tống lúc ấy tên là Quách Quỳ đánh giá: “Quảng Nguyên là cổ họng của Giao Chỉ, có binh pháp mạnh đóng ở đó. Nếu ta không đánh lấy thì khi ta đi sâu vào đất chúng, quân ta sẽ bị đánh cả ở mặt trước và mặt sau”. Biết trước âm mưu xâm lược nước Đại Việt của nhà Tống, vua Lý Nhân Tông với chiến thuật “Tiên pháp chế nhân” đã cử Thái uý Lý Thường Kiệt xuất quân tiến đánh, đốt phá kho tàng của quân Tống ở vùng châu Khâm, châu Liêm nhằm làm giảm ý chí xâm lược của nhà Tống.

Nhận được mật lệnh của Thái uý Lý Thường Kiệt, Hoàng Lục cùng Tôn Đản, Nùng Chí Xuân trở thành bộ tướng dũng mãnh của Lý Thường Kiệt tung hoành ngang dọc trên đất Tống. Phá tan âm mưu xâm lược nước Đại Việt của nhà Tống, Lý Thường Kiệt ra lệnh rút quân về nước xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt và tin cậy giao cho Hoàng Lục trấn giữ vùng Đông Bắc từ Quảng Uyên đến Phục Hoà. Với nhận định của Quách Quỳ thì trận đánh ở Quảng Nguyên có tính chất quyết định. Trấn giữ vùng Quảng Nguyên lúc này là Lưu Kỷ – một viên tướng có kinh nghiệm đánh vùng rừng núi của nhà Lý với 5.000 binh mã. Khi quân Tống dưới sự chỉ huy của Phó tướng Yên Đạt ồ ạt tấn công vào Quảng Nguyên đã gặp phải sự đánh trả quyết liệt của quân Hoàng Lục và Lưu Kỷ. Theo lưu truyền trong dân gian thì chính khu vực đền thờ hiện nay là nơi Hoàng Lục lập trận địa để chặn bước tiến của quân xâm lược Tống. Dấu tích còn sót lại đến ngày nay là những ụ, thành đất hình chữ nhật, hình xoáy trôn ốc nằm rải rác dọc hai bên bờ sông Quây Sơn, cách đền khoảng 1 km.

Đền thờ Quan Hoàng Lục  An Biên Tướng Quân

Quan Hoàng Lục hóa ngày 22/4/1088 tại Phục Hoà, quân sĩ và nhân dân đã tổ chức đưa hài cốt ông về chôn cất tại quê hương Lũng Đính. Với những công lao to lớn trong việc gìn giữ biên cương, Hoàng Lục được phong An Biên tướng quân. Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân vùng Lũng Đính đã xây dựng đền thờ ông trên núi Đoỏng Lình. Đền thờ Hoàng Lục đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào năm 2004.

An Biên Tướng Quân Quan Hoàng Lục

Đền thờ An Biên Tướng Quân Quan Hoàng Lục

Quan Hoàng Lục là một tướng giỏi có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, được triều đình nhà Lý phong chức An Biên tướng quân, thống lĩnh quân mã để bảo vệ biên cương phía Bắc. Sau khi ông mất, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của ông. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, việc xác định đền thờ Hoàng Lục được khởi dựng từ khi nào vẫn chưa được làm sáng tỏ, song kiến trúc còn lại của ngôi đền là hai gian nhà cấp 4 (kiểu chữ nhị) khá rộng với diện tích khoảng 100 m, vì kèo quá giang bằng gỗ, mái lập ngói âm dương, cửa đền quay ra hướng Nam, phía trên điện thờ có hoành phi ghi: “Tư cách chi thần“.

Hai bên có hai câu đối:

“Thần uy nghiêm dực hành đất Tống
Thánh đức anh linh phổ Việt Thanh”.

Gian tiền đường và hậu cung được ngăn cách bằng một bức tường dày. Theo các cụ cao niên trong vùng kể lại, trước đây trong đền có tượng Hoàng Lục bằng đồng, hai bên có tượng quan văn, quan võ bằng đất và chuông đồng, hậu cung có nhiều bệ thờ và bát hương, nhưng các hiện vật này đã bị thất lạc. Giá trị còn lại của ngôi đền chính là ở chất liệu xây dựng. Đền được đắp trình tường bằng đất sét trộn với mật mía rất công phu. Đến nay, các bức tường vẫn còn vững chắc, đặc biệt vẫn còn lưu giữ được 4 sắc phong của triều Nguyễn phong cho những người canh giữ đền đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.

 

Ghi nhớ công lao của An Biên tướng quân Hoàng Lục, hằng năm cứ vào 14, 15 tháng Giêng nhân dân trong vùng lại mở hội lớn tại đền.

  • Ngày 14, các nghi thức phần lễ được tiến hành, như: Dâng lễ vật, đọc văn tế với nội dung ca ngợi công lao của Hoàng Lục đã có công gìn giữ vững chắc một dải biên cương của Tổ quốc; Tiếp theo là cầu phúc, cầu lộc cho dân chúng một năm mới vạn sự tốt lành.
  • Ngày 15, các trò chơi dân gian được diễn ra sôi nổi, như: Tung còn, múa Kỳ lân, hát văn nghệ… Đến mùa thu, khi mùa màng đã thu hoạch xong, người dân địa phương lại chọn ngày tốt mổ lợn, làm xôi dâng lên đền để tạ ơn.

Hầu giá Quan Hoàng Lục

Không giống như những vị quan hoàng khác, Quan Hoàng Lục rất ít khi về ngự đồng. Chỉ khi nào đến ngày tiệc chính hoặc thỉnh ông tại đền thờ chính thì ông mới về ngự đồng. Khi về ngự đồng, ông mặc áo đỏ, cũng có nơi khi hầu đồng quan mặc áo đen hoặc áo xanh thêu rồng hình chữ thọ và khoác áo choàng. Khi làm việc, ông khai quang, múa cờ, múa kiếm. Rồi ngự tửu nghe văn và xe giá.

Quan Hoàng Lục

Quan Hoàng Lục

 

Bản văn Quan Hoàng Lục

Chính quê Trùng Khánh Cao Bằng
Có quan Hoàng Lục giáng phàm tối anh linh
Cõi trần gian hữu tình hữu cảnh
Đất Cao Bằng – Trùng Khánh tựa cõi tiên
Lý triều có Đại tướng An Biên
Tiễu trừ giặc Tống giữ yên cõi bờ
Nước Nam Việt đẹp như huyền thoại
Sách trời ghi sáng mãi sử oai hùng
Đức Hoàng Lục ngài thông thạo kiếm cung
Vâng lệnh Thái Úy giữ vùng biên cương
Mười tám tuổi am tường binh pháp
Thông kinh thư sử sách làu làu
Khắp hòa tam thập lục châu
Nức danh gia thế đẹp câu thuận hòa
Khai quang thậm thì diệu
Quang minh chứng đàn duyên
Ngã tích tang cúng dàng
Kim phụng hoàng lân cận
Phật Thánh Chúa Tiên trung vương.
Hoàng Lục có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh
Chuyên cần luyện tập quân binh
Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi
Thái Úy Lý Thường Kiệt đức vời vời sáng
Nhận thấy Hoàng tỏa rạng mưu cơ
Ban cho nào kiếm nào cờ
Cùng ban mật lệnh bất ngờ xuất quân
Dùng chiến thuật chế nhân tiên pháp
Phá kho tàng tiến đánh Tống bang
Châu Liêm cùng với châu Khâm
Xua quân xung kích thỏa tầm trông xa
Sông Như Nguyệt dựng ra phòng tuyến
Dẹp âm mưu xâm chiếm nước ta
Từ Quảng Uyên đến Phục Hòa
Hoàng Lục trấn giữ gần xa thỏa lòng
Mậu Tuất Lý Nhân Tông Chính Hạ
Hoàng Lục ngài từ giã nhân gian
Đoỏng Lình dân lập ngôi đền
Khắp vùng Lũng Đính muôn miền khói nhang
Đức Hoàng Lục độ oan cứu khổ
Ngài hiển linh phù trợ trần gian
Tội công (Ai tội, ai công) ngài biên chép rõ ràng
Tiễu trừ kẻ ác phục hàng quỷ ma
Cũng có lúc Ngài ra trợ phép
Giúp cho người đẹp nết thảo ngay
Có khi dạo gót đông tây
Câu thơ Thái Úy sẵn bày cuộc ngâm
Ngài ngâm rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Đấng anh linh phong tư tài mạo
Rạng vẻ ngoài mũ áo cân đai
Độ cho hai chữ Lộc Tài
Độ cho già trẻ gái trai cát tường
Phép thần thông hô phong hoán vũ
Tài kinh bang tế thế chuyển luân
Nức lòng tướng sĩ ba quân
An Biên đại tướng muôn dân phụng thờ

Ngày tiệc Quan Hoàng Lục

Trong tứ phủ thì ngày tiệc của Quan Hoàng Lục là ngày 19/4. Vì ngài không mấy khi ngự đồng nên rất ít người biết, thậm chí là không biết.

——————

Ngoài sự tích Quan Hoàng Lục An Biên Tướng Quân, dân gian còn biết tới một số sự tích khác được cho là hiện thân của Quan Hoàng Lục gồm Quan Hoàng Lục Thanh HàQuan Hoàng Lục Trần Nhật Duật.

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2019

Quan Lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh còn gọi là Đệ Ngũ Tuần Tranh hoặc Ông Lớn Tuần Tranh là vị Quan lớn đứng hàng thứ năm trong hàng Ngũ vị Tôn Quan (sau hàng Tam Tòa Thánh Mẫu) cũng cuối cùng xếp sau Quan lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Ngài là vị tướng tài ba danh tiếng lẫy lừng, nắm quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh được nhân dân nhất mực tôn kính phụng thờ.

Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh vào thời Hùng Vương

    Sự tích cho rằng Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai thứ năm của Vua Bát Hải Động Đình, ngài giáng dưới thời vua Hùng Định Vương trong Hùng Triều Thập Bát, vào một gia đình ở tại phủ Ninh Giang (Hải Dương). Ngài cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Tại nơi đây ngài đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.

    Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Truyền thuyết khác về Quan Lớn Tuần Tranh

Theo truyền thuyết, ngày xưa lưu truyền tại khu vực Đền Ninh Giang ngày nay: Ngày xưa ở làng Lạc Dục, huyện Tứ Kỳ có hai vợ chồng nhà nghèo, đã già mà chưa có con. Một hôm người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh bụi cây 2 quả trứng, ngỡ là trứng chim nên đem đi cất cẩn thận. Ngờ đâu, 2 quả trứng nở thành 2 con rắn. Người vợ sợ quá, định đem giết đi nhưng người chồng không nghe, nói rằng có lẽ trời cho ta khuây khỏa cảnh già đây. Quả nhiên, hai con rắn quấn quýt với 2 vợ chồng ông già. Một hôm ông cuốc đất, 1 con nhảy vào đùa nghịch, bị ông cuốc cụt đuôi (Về sau khi linh ứng, dân làng lập miếu thờ, gọi là miếu Ông Cộc, Ông Dài). Nhưng phải một nỗi, 2 con rắn ấy chỉ ăn gà thôi. Ông già đi ăn trộm gà cho chúng ăn nhiều rồi, sau sợ hàng xóm biết thì phải tội nên đành phải mang 2 con rắn vứt xuống sông Tranh. Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau sóng xoáy dữ lắm. Một hôm có bà công chúa muốn qua sông nhưng nớưc xoáy dữ, thuyền không qua được. Sau theo lời quan, dân sở tại đòi 2 vợ chông ông già đến hỏi chuyện. Bà lão sợ quá, bèn lấy 2 nắm cơm vứt xuống sông và nói rằng “con ơi, con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để mẹ khỏi tội”. Bà vừa nói xong thì sóng yên lặng.

Về sau có ông quan phủ tên là Trịnh Thường Quân được bổ về Ninh Giang. Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm. Một hôm bà đi chơi thuyền trên sông Tranh, gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ. Bà nhất định không nghe. Đêm về, đang ngủ, bỗng lại thấy người đó hiện vào phòng, nhất định đòi lấy. Bà đem chuyện này nói với quan Phủ. QUan Phủ cũng lấy làm lạ nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm ngài có việc quan đi vắng, đến luúc về thì thấy buồng không. Quan Phủ lấy làm phiền lắm, bèn từ chức, ngày ngày ra bờ sông Tranh tìm vợ. Sau gặp một ông Tiên tên là Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của Vua Thủy bắt xuống làm vợ rồi. Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện Vua Thủy mà kêu, Tiên cũng kêu hộ. Sau Vua Thủy cho cả hai vợ chồng về rồi bắt Hoàng tử thứ 5 đem đày ra sông Tranh. Từ đó dân ở 2 bên bờ thấy có nhiều điều kỳ dị nên lập đền thờ, gọi là đền Tranh. Dân quanh bến hoặc thuyền bè xuôi ngược qua đây nếu gặp sóng gió đều kêu cầu, sóng gió sẽ êm. Ai có cầu kiểu gì cũng đều linh ứng. Thỉnh thoảng những đêm trong sáng, có người trông thấy một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra. Người ta liền kháo nhau, đó là Quan lớn Tuần Tranh. Về sau, do có nhiều công giúp dân buôn thuyền, bán bè, qua sông bình an, may mắn nên vị thần được tôn là: Quan “đệ ngũ Tranh Giang Hoàng hợp tôn thần”. Đền Tranh có tiếng linh thiêng, cầu việc gì được việc ấy nên khách đến lễ ngày càng đông…

Kể về nỗi oan Quan Lớn Tuần Tranh

Nói về nỗi oan của Quan Lớn Tuần Tranh khi dâng văn có đoạn:

“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”

Hầu Quan Lớn Tuần Tranh khi ngự đồng

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm toà Quan Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất. Bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp lễ tiệc, đàn tràng nào cũng đều phải thỉnh Quan Lướn Tuần Tranh về ngự.

Quan lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh giá ngự về đồng.

Khi loan giá ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù. Sau khi làm lễ tấu hương, khai quang, ngài chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các Quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ rồi mới được đem đi hoá.

>>> Xem thêm: Đệ Ngũ Vương Quan

Đền thờ Quan Lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi, đền nào cũng có ban Ngũ vị Tôn Quan thờ ngài, tuy nhiên để nói về đền chính thờ thì phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:

    • Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích).
    • Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).

Quan Lớn Tuần Tranh

Quan đệ Ngũ Tuần Tranh

Đền Tranh thờ Quan Lớn Tuần Tranh

Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh

Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.

Văn Khấn Quan Lớn Tuần Tranh

(Bản văn Tham khảo)

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu

Kính lạy: Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, cộng đồng các quan.

Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Các bản văn Quan Lớn Tuần Tranh

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 1

Đệ tử tôi khấu đầu củng thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ Tuần Tranh
Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Cảnh thiên thai Quan Tuần giá ngự
Các bộ nàng tiên nữ dâng hoa

Ninh Giang chính quán quê nhà
Danh lam cổ tích ngự tòa ngôi cao
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Cửa sông đâu đó phụng thờ
Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh


Cảnh am thanh nhiều bề lịch sử
Vốn đặt bầy tự cổ dĩ lai
Có phen chơi chốn thiên đài
Đào, Lan, Quế, Huệ vui vầy xướng ca
Trên bát ngát Long, Xà, Hổ phục
Dưới tam đầu cửu khúc chầu lên


Lân rờn Phượng múa đôi bên
Thỉnh ông Đệ Ngũ ngự trên sập rồng
Sắc vua phong kiêm tri tam giới
Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh
Quan Tuần vạn phép muôn linh
Quyền ông cai quản thiên binh nhà trời


Ngự đồng chơi minh quyền bóng quý
Nương uy trời thuỵ khí đoan trang
Quan Tuần hiển hách uy quang
Ra tay tế độ trần gian được nhờ
Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ
Nương uy trời cứu độ sinh nhân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà


Khắp gần xa bách quan đều phục
Ai có lòng hưởng phúc hà sa
Dù ai bệnh hạn không qua
Cầu quan Đệ Ngũ bệnh đà tan không
Nay dốc lòng ơn ông vạn bội
Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha
Hay là cách trở giang hà
Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không


Tiếng nức danh tung hoành dũng lược
Cảnh non bồng nước nhược bồng lai
Khi chơi bạn trúc bạn mai
Bàn loan tiệc ngọc vui vầy sướng ca
Các bộ nàng ra tay bẻ quế
Quan dạo chơi thành thị hồ tiên
Ba nghìn thế giới dư thiên
Tiếng Quan Đệ Ngũ khắp miền đông tây


Uy ra thổi gió thét mây
Phép ông ứng hiện đổ cây tốc nhà
Bốn phương hoà đội ơn đức cả
Ai có lòng hỉ xả từ bi
Phút thôi ông lại biến đi
Cưỡi tướng Bạch Hổ lên chầu thượng thiên

Khi cầm quyền còn đương tra sổ
Hay ông còn đổi sổ cho ai
Thiên binh văn võ gồm tài
Đức ông lịch sự đáng trai anh hùng
Đêm ngày giữ việc thuỷ cung
Đợi lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhân

Ai mà cầu nhân đắc nhân
Cầu phúc đắc phúc bản thân điều hoà
Kiên tri tam giới các toà
Ông về giáng ngự xướng ca điện tiền
Chữ thập biến làm chữ thiên
Phù hộ đệ tử thiên niên hoà hài

Một nguyện giáng phúc trừ tai
Đồng gia nam nữ ai ai thịnh cường
Hai nguyện buôn bán trăm đường
Tiền vàng lưu loát bạc vàng đề đa
Nguyện thứ ba công hầu cập đệ

Hộ tiểu tôi phú quý giầu sang
Bốn nguyện quốc phú dân an
Can qua ninh tỉnh dân an thái bình
Ông về linh giáng điện đình
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 2:

Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn

Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu

Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Tài cung kiếm sánh cùng võ tử
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông

Chí đã quyết ngoài vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyền

Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên
Tin đâu khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh

Có ngờ đâu đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân

Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.

lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thường

Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu

Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng

Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt Cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng

Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời

Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà

Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay

Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà

Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây

Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này

Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng

Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan

Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha

Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai

Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông

Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 3

Quyết mở đường dân an quôc thái
Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn
Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu
Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh


Tuổi niên thiếu đao binh yên ngựa
Sống vì đời thác trợ muôn dân
Sinh làm tướng thác làm thần
Dấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờ
Gương đã tỏ soi đời càng tỏ
Trấn Ninh Giang vạn cổ anh linh


Bao phen đắp lũy xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Quan Lớn Tuần đánh Đông dẹp Bắc
Đã quyết lòng đánh giặc ghi công
Làm trai đáng mặt anh hùng
Sông Thương đột phá treo cung non Đoài


Gương anh khí sáng ngời muôn thủa
Chí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay nòi giống tiên rồng
Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao

Thơ:

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi để dấu oai linh.


Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.


Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang


Nước sông Tranh đêm ngày vẫn chảy
Sóng tuôn trào cuồn cuộn về đâu
Chúng con nhớ người tráng sĩ lập lên công
Ngàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêu


Ngựa chiến xông pha đao thần ra trận
Sinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôi

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...