Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Họ Hồng Bàng

 Tục truyền rằng vua đầu nước ta hiệu Kinh Dương Vương và vua đầu Bắc quốc hiệu Đế Nghi là hai anh em, con ngài Đế Minh, cháu 3 đời Viêm Đế Thần Nông. Viêm Đế Thần Nông là vị thần coi về trồng trọt ngũ cốc cho loài người.

Một hôm Ngọc Hoàng thượng đế trông xuống cõi trời Nam, thấy trên mặt đất phần lớn là hoa quả, ít ngũ cốc, mới bảo Thần Nông rằng:
- Ta sắc chỉ sai nhà ngươi xuống trần gian giúp cho giống người da vàng trồng lúa làm lương ăn.
Thần Nông bèn hội họp con cháu kể lại sắc chỉ của Ngọc Hoàng. Đế Minh là cháu ba đời nói rằng:
- Công việc mùa màng ở hạ giới rất vất vả. Vậy cháu xin đi thay.
Thần Nông khen Đế Minh là hiếu thảo, đưa cho hai hạt thóc, một để ăn, một để làm giống đem đi.
Đế Minh và vợ đáp mây lành xuống ở núi Nghĩa Lĩnh. Hàng ngày hai vợ chồng cậy một hạt thóc lấy bột gạo ăn, còn chiếc vỏ trấu để lại, sau dân thờ làm trấu thần.
Lại nói việc dạy dân trồng lúa. Vùng cao thì ông bà dậy họ phát nương đốt trà, chọc lỗ tra hạt (đao canh), vùng thấp thì đợi nước sông rút cạn, ruộng bãi đã thối ngấu cây cỏ, lấy trang cào mà đẩy cho sục bùn, đều phẳng, rồi gieo giống (thuỷ nậu). Lại dạy dân bỏ gạo vào ống tre đốt làm cơm mà ăn, bắt tôm cua làm mắm dùng gừng giềng làm gia vị, chưng cốt gạo lấy rượu uống, bắc gỗ làm nhà sàn tránh hổ sói, cưới xin thì lấy gói đất làm đầu, giết trâu dê làm đồ lễ, nấu cơm nếp nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm. Khi có người chết thì giã cối làm hiệu để bản làng đến cứu giúp.
Đế Minh sinh được hai con trai, anh là Lộc Tục, em là Lộc Linh. Một hôm có sứ của Ngọc Hoàng xuống triệu Đế Minh về trời. Ông gọi hai con đến bảo:
- Ngọc Hoàng sai ta xuống hạ giới có kỳ hạn, nay đã làm xong công việc. Trước khi về trời ta phong cho Lộc Tục cai quản phương Bắc. Lộc Linh cai quản phương Nam.
Lộc Tục cố nhường cho em phương Bắc, còn mình ở phương Nam. Đế Minh nghĩ “Lộc Tục thông minh hơn cho đất rộng hơn, chẳng ngờ lại từ tạ”, bất đắc dĩ cũng bằng lòng.
Lộc Linh nhận phương Bắc xưng là Đế Nghi.
Lộc Tục nhận phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương có tài đi lại dưới nước, gặp Thần Long Nữ con gái vua Động Đình Hồ nhan sắc đẹp tươi, bèn lấy làm vợ. Thần Long Nữ sinh ra một người con trai mình đầy vảy rồng, đặt tên là Sùng Lăm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng hiệu là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân đi tuần thú tới động Lăng Xương gặp Tiên nữ Âu Cơ hái dâu bên bờ sông Đà, bèn lấy làm vợ đưa về ở núi Nghĩa Lĩnh.
Âu Cơ có mang ba năm ba tháng mười ngày, đến giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý chuyển dạ sinh ra một bọc trăm trứng. Hôm ấy trời xanh nắng ấm, mây lành ấp núi, hương thơm ngan ngát đầy phòng.
Long Quân cho triệu triều thần đến lập đàn tế cáo trời đất. Các loài sơn cầm thuỷ tộc đều đến chầu mừng. Ngày 15 tháng Giêng năm ất sửu trăm quả trứng nở thành trăm con trai. Những người con này không bú mớm, chỉ ăn hoa quả, không nói năng, mỗi ngày cười 3 lần. Bỗng một hôm tất cả đều hô vang "Trời sinh vua trị nước, thiên hạ thái bình". Vợ chồng Âu Cơ rất mừng rỡ, nhưng không biết làm thế nào để phân biệt được đàn con đông đúc ấy, bèn đem lễ vật mời ông Tiên ngồi câu cá ở bến Việt Trì lên đặt tên cho từng người. Tiên ông đặt tên người con cả là Lân Lang, chín mươi chín người em cũng đều gọi là Lang như Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang...
Long Quân bảo Âu Cơ rằng:
- Ta là giống Rồng đứng đầu thuỷ tộc. Nàng là giống Tiên sống ở trên núi. Tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly, ta đem 50 con về miền bể chia trị các xứ, cho 50 con theo nàng lên núi, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên. Trước khi đi, Long Quân phong cho người con trưởng làm vua và bảo các con rằng: "Giống sơn nam và giống thủy tộc thường ghét nhau. Hãy lấy mực săm mình cho giống giao long thì lội xuống nước mới không bị hại”. Lại dặn: "Khi nào có nguy cấp thì gọi to: “Bố ơi về cứu con”, "ta sẽ đến ngay”.
Lân Lang bèn xưng là Hùng Quốc Vương, đóng đô ở Việt Trì, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ, sai các em đi trấn giữ. Kể từ đây các vua nối đều lấy hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời (Đầu là Kinh Dương Vương, cuối là Hùng Duệ Vương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...