Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016
Đền Tả Phủ - Lạng Sơn
Đền Tả Phủ nằm ở trung tâm phố chợ Kỳ Lừa thuộc phường Hoàng Văn Thụ được xây từ năm Chính Hòa thứ 4 (1683) thờ Tả đô đốc Hán quận công Thân Công Tài và được xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1993.
Hán quận công Thân Công Tài là người xã Như Thiết, huyện Yên Dũng phủ Lạng Giang, nay là thôn Như Thiết, xã Hồng Thái huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Xuất thân trong một dòng họ quý tộc có học, nhiều đời làm quan. Ông được trọng dụng, bổ nhiệm lên Lạng Sơn làm Phó tướng nhận chức Đô đốc Đồng tri giúp việc trấn giữ biên thùy. Trong những năm làm quan ở Lạng Sơn, ngoài việc chăm lo phòng thủ đoàn thành, giữ gìn biên ải, Thân Công Tài đã nhận thấy tầm quan trọng cũng như vị trí thuận lợi trong việc mở mang thương trường giao lưu buôn bán của Lạng Sơn và chính ông là người khởi xướng trong công cuộc này.
Nhân dân ở đây vẫn truyền tụng rằng, ông là người có công san đồi, bạt đất mở mang thành 7 con đường và lập nên 7 phường cho phố chợ Kỳ Lừa, tạo cho trấn lỵ Lạng Sơn một khu buôn bán phồn vinh, tấp nập, giúp cho dân chúng trao đổi hàng hóa thông thương xuôi ngược và qua lại biên giới. Nhờ đó mà 1 vùng đồi gò hoang vu rậm rạp, dân cư thưa thớt ở mạn Bắc Đoàn thành đã nhanh chóng trở thành 1 điểm quần cư của nhiều dân tộc, 1 cửa ngõ buôn bán sầm uất thu hút cả thương nhân ngoại quốc vào kinh doanh. Và cũng nhờ đó mà người đời sau được biết đến phố chợ Kỳ Lừa, một địa danh mà sau này trở nên nổi tiếng ở vùng ải bắc.
Lịch sử lưu danh truyền hậu thế
Thương trường khai thị Hán Quận Công
Có nghĩa là: Lịch sử lưu danh truyền muôn thủa
Mở chợ gây dựng thương trường là Hán quận công.
Hán Quận Công Thân Công Tài đã vận dụng sáng tạo kinh nghiệm của cha ông từ bao đời nay, đó là: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng”. Việc ông mở ra phố chợ Kỳ Lừa của trấn lị Lạng Sơn đã chứng tỏ một tầm nhìn chiến lược về kinh tế, từng bước biến thị trấn biên ải xa xôi trở thành nơi đô thị buôn bán giao lưu hàng hóa nhộn nhịp giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Ngày nay tư tưởng ấy vẫn còn nguyên giá trị trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, tạo nên sự thịnh vượng để yên dân nơi phên dậu của Tổ quốc.
Đền Tả Phủ có cửa chính quay về hướng Tây, nằm trên thế đất cao tạo nên vẻ uy nghi, linh thiêng với kiến trúc gồm 2 tòa, kết cấu theo lối chữ Công. Nối liền giữa hai tòa là một khoảng sân nhỏ có tấm bia đá tạo dựng năm Quý Hợi, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (năm 1683); bia có tiêu đề “Tôn sư phụ bi” (bia ghi việc tôn thờ người làm thầy, làm cha), ghi tạc công lao của Thân Công Tài với Lạng Sơn và việc mở mang thương trường buôn bán tại đây.
Ngoài ý nghĩa lịch sử về lưu niệm danh nhân lịch sử Thân Công Tài, nơi đây còn là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân. Du khách thập phương nhớ đến xứ Lạng không thể không nhớ đến một lễ hội xuân lớn ngay giữa chợ Kỳ Lừa, đó là lễ hội đền Tả Phủ - Kỳ Lừa được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 27 tháng giêng hàng năm. Một lễ hội có quy mô lớn được nhân dân các dân tộc thành phố Lạng Sơn và du khách gần xa thành kính dâng hương tưởng nhớ Hán Quận Công Thân Công Tài và cầu cho “Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, kinh doanh buôn bán phát lộc, phát tài”.
Lễ hội tại Đền Tả Phủ
Trải qua thời gian, đến nay di tích đền Tả Phủ đã xuống cấp. Được sự nhất trí của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2019 Ban quản lý Đền triển khai phương án tôn tạo ngôi đền bằng hình thức xã hội hóa. Đây là hoạt động hết sức có ý nghĩa đối với cán bộ và nhân dân trên địa bàn phường cũng như du khách thập phương, với mong muốn giá trị của ngôi đền luôn được bảo tồn, gìn giữ và phát huy.
Để hoàn thành việc trùng tu di tích, Ban quản lý đền mong muốn nhận được sự phát tâm ủng hộ của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, doanh nhân, các tổ chức, cá nhân bằng tình cảm cao đẹp của mình chung tay, góp sức, ủng hộ vật chất, kinh phí, tư liệu lịch sử để góp phần hoàn thành việc tôn tạo đền.
Đền cửa Tây
(PLVN) - Tọa lạc ở phía tây Thành cổ Lạng Sơn, nay là đường Trần Hưng Đạo (quốc lộ 1A cũ Lạng Sơn - Hà Nội) của thành phố Lạng Sơn, đền Cửa Tây là một trong 4 ngôi đền trấn giữ Đoàn Thành và là nơi thờ vọng Đức Thánh Trần ở xứ Lạng. Di tích lịch sử này đã được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia năm 2013.
Đền Cửa Tây có tên chữ là Ngũ Nhạc Linh từ, được xây dựng vào khoảng cuối thế kỷ XVIII. Ngôi đền thiêng nằm bên cửa sông Kỳ Cùng thơ mộng, cũng như 3 ngôi đền được mệnh "tứ trấn" xứ Lạng, đền Cửa Tây với tín ngưỡng thờ Thánh Mẫu (mẫu Thoải - nữ thần sông nước phù hộ độ trì cho mưa thuận gió hòa). Ngoài ra đây còn là nơi thờ vọng Đức Thánh Trần -vị tướng tài đời Trần được nhân dân phong Thánh, người ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông và các tướng nhà Trần.
Theo truyền thuyết dân gian, mẫu thoải phủ là con gái út của Bát Hải Long Vương, rẽ nước biển lên trần dạo chơi. Nhưng ngày kia vua cha cho đóng cửa biển nàng công chúa thủy phủ này không còn đường về thủy cung nên đã ở trên trần lịch kiếp tu nhân tích đức từ cô bé thoải dần trưởng thành xinh đẹp được phong là công chúa thủy phủ rồi đức hạnh ngày càng cao nên được mệnh danh là Mẫu Thủy Phủ - mẹ của người dân miền sông nước.
Vì đức độ vì thương yêu con dân nên bà được tôn phong là Đệ Tam Thánh Mẫu trong đức thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Mẫu Thoải giúp đỡ mọi người mỗi khi đi qua các vùng sông nước, giúp nghĩa quân đánh thắng giặc trên đường thủy. Mỗi khi có hạn, Mẫu phái tướng sĩ đi lo việc làm mưa. Còn khi bão lụt, Mẫu lại hóa phép để làm gió yên, mưa tạnh. Các loài thủy quái, thủy tặc, do có các thần tướng của Mẫu canh chừng, nên cũng không thể tùy tiện tác oai, tác quái.
Đền Cửa Tây. |
Tại đền Cửa Tây, tòa thứ nhất là điện thờ các vị Thánh Mẫu với bàn thờ trang trọng, linh thiêng. Tòa thứ hai thờ Trần Hưng Đạo kiến trúc theo kiểu chữ Đinh thờ Đức Thánh Trần và các vị tướng tài như Phạm Ngũ Lão, Dã Tượng, Yết Kiêu cùng các Hoàng tử và Công chúa.
Hiện nay trong đền vẫn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị như: Hoành phi, câu đối, hệ thống tượng thờ, chuông… Ngoài ra, Đền còn có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu.
Đền Cửa Tây ngoài giá trị kiến trúc nghệ thuật, còn là nơi sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng của nhân dân địa phương cũng như khách thập phương. Lễ hội truyền thống hàng năm được tổ chức vào ngày 20 tháng Giêng âm lịch. Vào ngày này, các gia đình, các Tổ liên gia trên địa bàn bày biện, sắm sửa các mâm lễ dâng lên đền để cầu cho Quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa.
Đền Cửa Tây cùng với “Tứ trấn” và Thành cổ Lạng Sơn xứng đáng là một điểm di tích lịch sử văn hóa hứa hẹn du khách phương xa khi đặt chân đến thăm xứ Lạng không thể không đến nơi này.
Người dân thường đến cầu Đức Thánh Trần về đường công danh sự nghiệp. Nếu có dịp đến thăm đền bạn sẽ thấy bên ngoài có 2 tấm bia công đức được tạc năm 1916 và 1923, là những tấm bia tạo hình có giá trị về mặt nội dung cũng như nguồn sử liệu để tra cứu.
Đền Kỳ Cùng - Lạng Sơn
Lịch sử đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Theo tư liệu địa phương, ngôi đền này đã có từ rất lâu nhưng sử sách không ghi rõ năm xây dựng, chỉ biết ban đầu là một ngôi đền nhỏ dựng bằng đất lợp ngói, thờ thần Giao Long (vị thần sông nước) cai quản toàn vùng, phù hộ cho mưa thuận gió hòa.
- Sách Đại Nam nhất thống chí có đoạn chép về đền Kỳ Cùng như sau : ở bên tả sông Kỳ Cùng thuộc xã Vĩnh Trại, châu Thoát Lãng, có con giao long thành thần đào hang ở đây, đền rất thiêng, nhiều lần được phong tặng. Khi sứ bộ qua đây, trước sửa lễ cáo yết, sau mới sang đò.
Về sau, việc thờ thần Giao Long được thay bằng thờ quan Tuần Tranh, bởi trong tâm thức người dân xứ Lạng, sự tích đền Kỳ Cùng gắn với truyền thuyết rằng: quan Tuần Tranh là con vua Bát Hải Động đình, giáng trần dưới thời Hùng Định Vương. Ông được nhà Trần cử lên trấn thủ Lạng Sơn, chỉ huy đánh giặc nhưng bị thua, quân lính thiệt mạng nhiều, ông lại bị vu cáo về tội dâm ô nên đã nhảy xuống sông Kỳ Cùng tự vẫn để chứng minh trong sạch.
- Cảm thấu nỗi oan và tấm lòng của quan Tuần Tranh, thần linh đã hóa phép linh hồn ông thành hai vị thần là ông Cộc - ông Dài ngự tại Đền để cai quản sông nước. Nỗi oan của quan Tuần Tranh về sau cũng đã được tả đô đốc Thân Công Tài (vị tướng nhà Lê) hóa giải trong sạch.
- Tướng Thân Công Tài là một nhân vật lịch sử có công lao lớn với nhân dân Lạng Sơn nói riêng, và là một danh nhân lịch sử văn hóa tiêu biểu của dân tộc ở thời nửa sau thế kỷ 17. Sau khi ông mất, nhân dân địa phương đã lập Đền Tả Phủ để thờ tự, tưởng nhớ công ơn.
Đến năm 1993, di tích đền Kỳ Cùng ở Lạng Sơn đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Kiến trúc đền Kỳ Cùng Lạng Sơn
Trải qua các giai đoạn lịch sử, kiến trúc đền ngày nay là sự pha trộn giữa truyền thống và hiện đại. Đền được xây dựng theo kiểu chữ Đinh, gồm 3 cửa vòm cuốn với 2 trụ gạch vuông, bên trên được đắp nổi các hoa văn, trên cùng là bộ tam khí gồm đỉnh và lọ hoa thờ hai bên.
- Mặt ngoài đền có kiến trúc gạch tháp chồng diêm mang tính chất gác chuông. Bên trong đền vẫn còn lưu giữ được các hoành phi, đại tự có niên đại từ thời Lê - Nguyễn cùng nhiều đồ thờ tự như: chuông, ngai, tán, lọng, đỉnh đồng và các pho tượng cổ có giá trị niên đại và mỹ thuật cao.
- Hiện nay, phía bên trái ban thờ quan lớn Tuần Tranh có thêm gian thờ Mẫu Phật Quan âm; phía trước là ban thờ Tam Tòa Thánh Mẫu. Ngoài ra, sân đền còn có bến đá, là 1 trong 8 cảnh đẹp của Lạng Sơn ghi trong “Trấn doanh bát cảnh”, được danh nhân Ngô Thì Sĩ gọi là Kỳ Cùng thạch độ.
Lễ hội đền Kỳ Cùng - Tả Phủ
Đây là lễ hội lớn nhất Lạng Sơn, được tổ chức long trọng hằng năm để tri ân công đức với các bậc tiền nhân, vào tạo không khí tươi vui phấn khởi đầu xuân. Lễ hội diễn ra vào giờ Ngọ ngày 22 tháng Giêng, bắt đầu với lễ rước kiệu ông Tuần Tranh lên tạ nghĩa với ông Thân Công Tài ở Đền Tả Phủ. Đến giờ Ngọ ngày 27 tháng Giêng, nhân dân địa phương lại làm lễ tiễn biệt, rước kiệu ông Tuần Tranh trở lại đền Kỳ Cùng.
- Lễ rước kiệu diễn ra sôi động với cả đoàn người trang phục lộng lẫy cùng đủ loại cờ quạt, võng lọng... Phần hội còn có nhiều trò vui dân gian như: đốt đầu pháo, cờ người, kéo co, múa rồng, múa sư tử, hát sli, hát lượn... thu hút đông đảo người dân và du khách thập phương về dự.
* Địa chỉ đền Kỳ Cùng ở đâu : nằm bên tả ngạn sông Kỳ Cùng và ở ngay đầu cầu Kỳ Lừa, thuộc phường Vĩnh Trại, gần ngay trung tâm thành phố Lạng Sơn.
Đền Ngọc Lâm Bắc Giang
Vào thế kỉ đầu sau công nguyên. Năm 0040. Thánh Thiên công chúa là con ông nguyễn Khuyến cư chú tại chùa Dân sinh, Chí Linh lúc bấy giờ thuộc chấn Kinh Bắc. Lúc bấy giờ thánh Thiên công chúa đã cùng cậu ruột dấy binh. Xưng là Nam thành vương phất cờ khởi xướng tại vùng quê An Dũng (nay là huyên Yên Dũng), sau đó ứng nghĩa với cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng quê ở Châu Phong. Vào một đêm Thánh thiên ngự tại chùa Ngọc Nham tại xóm phố Ngọc Lâm bây giờ (Đất chùa nay vẫn còn ở đó không ai ở).
Đại bản doanh chiêu mô quân sĩ. Có một đội quân hùng tráng (Năm 0040 sau công nguyên) là nơi thắng địa bèn lập đại bản doanh, chiêu mộ quân sĩ. Có đội quân hùng tráng đã được Trưng nữ vương phong tướng. Phát huy lòng yêu nước dẹp tan quân Tô Định bạo tàn, dẹp yên biên thành.
Ba năm sau (0043) nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang đánh nước ta. Hai bà Trưng tuẫn tiết trên sông Hát Giang.Thánh Thiên công chúa từ hợp phố nạm Cao Bằng về đại bản doanh đánh tan quân Mã Viện, xương chất thành đống. (Nay còn gọi là bãi Hán), máu chảy thành sông. Ngày nay vẫn còn nguyên trận chiến là 7 khúc sông.Khi đánh tan quân giặc.Thánh Thiên công chúa thấy thế của mình, lường được lực giặc. Thánh Thiên công chúa trên mình ngựa cân đai trên mình tuấn mã phi nước đại hướng dòng sông tuẫn tiết nơi Bến Ngọc.
Bến Ngọc đó có một tảng đá to lạ thường tại đây.Mù nước cạn vẫn còn nguyên hình chiến trường xưa thời Mã viện chôn xá quân thù.
Hai ngàn năm qua. Cách mạng tháng tám thành công ngày 23 thánh 11 năm 1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị số 69 chỉ thị cho toàn Đảng toàn dân tộc. Bảo tồn di tích trên toàn cõi Việt Nam.
Vâng lời Bác Hồ dạy năm 1991 Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học tại Ngọc Lâm đã thành công tốt đẹp.
Sở văn hóa tỉnh Hà Bắc giao nhiệm vụ cho cơ quan Bảo Tàng tỉnh phối hợp với tư liệu của viện sử học, viện hán nôm. Đã thiết lập hồ sơ khoa học xếp hạng di tích lịch sử đền thơ Ngọc Lâm thờ Thánh Thiên công chúa như quyết định đã nêu trên.
Chùa Vẽ- Di tích nghệ thuật độc đáo ở Bắc Giang
(BGĐT)- Chùa Vẽ tự là Huyền Khuê, xưa thuộc xã Nam Xương, tổng Thọ Xương, huyện Lạng Giang, nay thuộc phường Thọ Xương, TP Bắc Giang (tỉnh Bắc Giang). Chùa Vẽ đã có hàng trăm năm, toạ lạc ở trung tâm làng Vẽ.
Những pho tượng với dáng vẻ khác nhau. |
Hai bên hành lang của ngôi chùa có 18 pho tượng là các vị La Hán được làm rất tinh xảo trông như người thật. |
Phía sau chùa là vườn tháp nơi yên nghỉ của các nhà sư quá cố. |
Xét về mặt giá trị nghệ thuật của ngôi chùa, năm 1994, chùa Vẽ đã được Nhà nước công nhận là di tích nghệ thuật cấp quốc gia. |
Thành Nam
http://baobacgiang.com.vn/bg/tp-bac-giang/165548/chua-ve-di-tich-nghe-thuat-doc-dao-o-bac-giang.html
Đền Từ Mận
Toạ lạc bên bờ Bắc dòng sông Thương cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng hơn 2km là một ngôi đền cổ kính, nhân dân vẫn gọi là đền Từ Mận, thuộc xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. Ngôi đền thờ Ngọc Khanh công chúa và chồng là Phạm Đức Hóa-con trai vị khai quốc công thần Phạm Văn Liêu, đã có nhiều công lao theo Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn gây dựng phong trào kháng chiến chống quân Minh ngay từ những ngày đầu. Hiện ở Xuân Hương còn lưu giữ được nhiều tư liệu thành văn nói về công trạng của Ngọc Khanh công chúa.
Trong gia phả chữ Hán, văn bản thứ 5 mục ghi dịch, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Văn Lạng dịch: “Lê triều Thánh Tông thuần hoàng đế có con gái thứ tám là Thiều Dương Thiên Cực, Thái Trưởng công chúa Lê Thị Ngọc Khanh dự đánh giặc Liễu Thăng về đến đất Xuân Mãn (Xuân Hương) thì mất vào giờ tý ngày 22 tháng 2 được cấp ruộng thế nghiệp để trông nom giữ gìn tổ mộ, từ đường, lăng miếu. Trước đây con gái thứ tám của nhà vua thu binh đánh giặc Liễu Thăng vâng lệnh vua sai đến xứ Nghệ An và các trấn, lộ cùng các tùy tòng và các tướng uy danh lừng lẫy, binh giáp tinh nhuệ, tiến đánh giặc thù, chém tướng giặc vang danh hiển hách.... .giúp nước yên dân, ổn định xã tắc, được hưởng việc thờ phụng theo nghi thức nhà nước. Niên hiệu triều Lê Hiền Tông thứ nhất sắc tặng gia ban đệ bát công chúa Lê Thị Ngọc Khanh là Tối Linh Đại Vương”....Theo nguồn tư liệu chính sử của nhà nước phong kiến, những sắc chỉ, lệnh chỉ triều Lê hiện còn lưu giữ ở Xuân Hương đã chứng tỏ công chúa Thiều Dương (Lê Thị Ngọc Khanh) là nhân vật lịch sử có nhiều công lao với dân với nước, cuộc đời bà đã gắn bó sâu sắc ân sâu nghĩa nặng với nhân dân Xuân Hương. Bà được nhân dân tôn thờ, được nhà nước các triều đại Lê-Nguyễn ghi chép vào sự tích, ban sắc phong làm Thành Hoàng làng để nhân dân đời đời thờ phụng.
Đền từ mận
Đồng Ngọc Dưỡng
https://langgiang.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/vkMGMBzMVR85/content/le-hoi-en-tu-man
ĐỀN XƯƠNG GIANG
Địa điểm chiến thắng Xương Giang được Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch công nhận di tích cấp Quốc gia năm 2009. Năm 2012 UBND tỉnh Bắc Giang đã đầu tư kinh phí xây dựng khu di tích Đền Xương Giang và đến nay dự án xây dựng cơ bản hoàn thành đón nhân dân và du khách thập phương đến chiêm bái, hành lễ. Theo các tư liệu lịch sử để lại, sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh cho xây đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng thủ, trong đó có Thành Xương Giang. Thành được xây dựng từ năm 1407. Thành Xương Giang khi đó trở thành thành lũy kiên cố nhất của Giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm từ Quảng Tây Trung Quốc nối với Đông Quan (Hà Nội ngày nay).
Để xây Thành quân nhà Minh bắt hầu hết người dân từ 16 đến 60 tuổi ở khắp vùng Lạng Giang đều phải đến đây lao dịch, đào hào, khoét đồi lấy đất đắp thành. Biết bao dân phu đã phải chôn mình trong quá trình xây dựng Thành hiện lên chất ngất. Qua nhiều lần khai quật khảo cổ học có tìm thấy dấu tích của thóc gạo cháy thành than. Cùng với đó là những hòn đá kê bằng đá vôi, đá muối, gạch ngói gốm sành sứ có hoa văn từ thời Lý Trần. Hiện nay các hiện vật vẫn còn được lưu giữ và trưng bầy tại bảo tàng tỉnh Bắc Giang.
Trước đây Thành Xương Giang có 1 ngôi đền cổ nằm ở phía Tây Bắc trong thành, nhưng cho đến những năm 1970-1980 ngôi đền đã bị đổ nát. Sau này người dân địa phương có dựng lại 1 ngôi đền nhỏ khoảng 6m2 trên nền đất cũ. Nhưng hiện nay do ngôi đền nằm ở vị trí không đắc địa, phải đi qua đường sắt và diện tích ngôi đền nhỏ nên dấu tích không đáng kể.
Với mục đích tôn thờ, ca ngợi đức cao tổ hoàng đế Lê Lợi và vinh danh những vị hiền thần đã có công trong chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang. Sau nhiều đợt khảo sát và qua nghiên cứu các di chỉ khảo cổ học địa điểm chiến thắng Thành Xương Giang, UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt quyết định xây dựng ngôi Đền Xương Giang tại địa điểm hiện nay. Theo đó, tổng diện tích khu di tích địa điểm chiến thắng Thành Xương Giang là 10 ha. Tất cả các hạng mục công trình tính từ ngoài vào trong theo trục dọc đăng đối, cân xứng, trong khuôn viên cây xanh thoáng mát, đẹp đẽ bao gồm: Cổng tam quan; Nghi môn, bình phong; Tả vu, hữu vu; Lầu chuông, lầu trống; Sân chính; Tòa tiền tế, tòa thiêu hương, Tòa chính cung
Ngôi đền tọa Đông Nam hướng Tây Bắc. Phía trước ngôi đền là cổng tam quan với 3 lối đi chính rồi đến nghi môn và bình phong. Nghi môn được xây dựng theo lối tứ trụ kình thiên, uy nghi trầm mặc giữa đất trời. Nghi môn được khắc câu đối với dòng chữ quốc ngữ, có lẽ đây chính là điểm đặc biệt của ngôi đền, Bởi lẽ ngôi đền thờ vị vua anh hùng áo vải nên khi thiết kế công trình, các nhà khoa học, sử học đã quyết định tất cả các câu đối trong đền đều được viết bằng chữ quốc ngữ để nhân dân có thể hiểu được. Và để phục vụ dân chúng dù người già trẻ, lành lặn hay khiếm khuyết cũng có thể tới thăm đền, 2 bên phải và trái có lối đi dành riêng cho người khuyết tật.
Phía bên trái sân là tả vu và lầu chuông, phía bên phải sân là hữu vu và lầu trống. Qua nghi môn là sân hội lớn lát đá vuông. Nơi ấy tụ nhiều nhân khí, thịnh vượng. Người xưa có câu tụ nhân như tụ thủy. Đền Xương Giang phía lưng gối đầu vào một gò đồi cao, xa xa là núi ông Trạng làng Kế. Như vậy có thể nói Đền Xương Giang có thế cục: đầu gối sơn, chân đạp thủy.
Hệ thống cây xanh trong đền được chú trọng, ngoài tác dụng tạo cảnh quan, bóng mát, giúp công trình hòa quện với thiên nhiên còn làm tĩnh tại tâm hồn người hành hương, truyền tải ý nghĩa về mặt tâm linh.
Tấm bảng tự Đền Xương Giang được giáp hoàn toàn bằng vàng. Khi màn đêm buông xuống 3 chữ vàng nổi lên trên nền đỏ rực rỡ cả một vùng.
Lầu chuông, lầu trống là sự thể hiện cho hào khí Xương Giang đời đời bất diệt. Tả vu, hữu vu là tượng trưng cho bá quan văn võ về chầu vào các dịp thiết triều. Ba tòa đền chính được thiết kế theo hình chữ Vương, tả vu, hữu vu theo lối chữ nhất. Lầu chuông, lầu trống theo lối ngoại vi, nội vi, công trình nghi môn theo lối bộ chấm hỏa và hai hồ nước hai bên tượng trưng cho chữ thủy. Vì vậy Đền Xương Giang hội đủ năm hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Tòa Tiền tế
Khu vực tòa Tiền Tế là nơi vào các dịp lễ, ngày tế, ngày hội, quan viên ban tế nhà đền là lễ tế các anh hùng nghĩa sĩ của Nghĩa quân Lam Sơn.
Gian giữa là hương án ban công đồng, nơi thắp hương các vị thổ công, thành hoàng, anh hùng nghĩa sĩ chung cho cả khu vực bản đền.
Tòa Tiền tế là công trình kiến trúc kết hợp giữa đá và gỗ hài hòa, ăn khớp với nhau. Hệ thống cột hiên được tạo tác bằng đá xanh, trạm khắc rồng mây uốn lượn mềm dẻo mà vẫn uy nghi.
Bên trong 2 phía 2 gian có 1 con ngựa trắng và trống, 1 con ngựa hồng và giá chiêng. Mỗi dịp tế thần trống và chiêng được dùng làm lễ tế thánh và các anh hùng Nghĩa sĩ Lam Sơn.
Đền Xương Giang còn lưu giữ những Di vật vô cùng quý giá được lấy về từ đền Lam Kinh - Kinh đô đầu tiên của nhà Lê sau khi thống nhất đất nước lập ra nhà nước Đại Việt, đó là 1 viên gạch từ thế kỷ 15 hiện được đặt trong tòa đền chính. Đất long mạch tại đền Lam Kinh được trải dưới nền đất thổ ngôi đền. Nước lấy từ giếng ngọc được đổ vào 2 giếng mắt rồng đền Xương Giang và chân hương từ đền Lam Kinh thờ vua Lê Lợi. Như lời chấp thuận của Đức Cao tổ Hoàng Đế Lê Lợi cho nhân dân tỉnh Bắc Giang được thờ phụng ngài.
Tòa Thiêu Hương
Tất cả kiến trúc tòa Thiêu Hương được làm bằng gỗ lim. Hệ thống xà ngang, xà dọc được chạm khắc hoa văn rồng mây, hoa lá theo phong cách thời Lê, thanh thoát, khỏe khắn.
Nơi đây có đặt 1 đỉnh đồng cỡ lớn mang ý nghĩa thần khí linh thông, tượng trưng cho sự uy nghiêm của nơi thờ tự. Vào ngày lễ, nhà đền đốt hương trầm để hương thơm lan tỏa tạo nên không gian linh thiêng, thuần khiết. Đỉnh đồng được đặt trên chiếu đá, chiếu đá được chạm hoa văn tinh xảo, phía dưới có lỗ thông âm dương hòa hợp.
Mặt trước của Đỉnh Đồng có khắc 3 di sản văn hóa của miền đất Bắc Giang: Cây dã hương nghìn năm tuổi ở huyện Lạng Giang, Chùa Vĩnh Nghiêm cổ tự và Mộc bản Kinh phật – di sản ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cũng từ nơi này khách hành hương đi theo các hướng có thể tới thăm những địa danh có các di sản của miền đất Bắc Giang.
Mặt sau của Đỉnh Đồng khắc lên toàn cảnh Lễ hội Xương Giang ngày hội toàn thắng của quân và dân Đại Việt sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc. Lễ hội Xương Giang là một trong những điểm nhấn quan trọng của quần thể di tích chiến thắng thành Xương Giang.
Nơi tòa Thiêu Hương chính là ranh giới ấn định địa phận của người trần với địa phận thờ các anh linh anh hùng nghĩa sĩ. Người xưa có câu: “ linh hồn người thường tồn tại hàng ngàn năm, nhưng anh linh của các vị anh hùng có công với đất nước tồn tại hàng vạn năm”. Vì vậy cửa chính cung ngày thường không mở, tòa thiêu hương là chỗ dừng chân trước cung cấm. Nhưng trong dịp lễ hội đầu xuân, khách dâng hương có thể tự do chiêm bái Đền Xương Giang
Tòa Chính cung có 3 gian thờ chính. Ban thờ Hoàng đế Lê Lợi đặt ở giữa gian. Tại ban thờ này là tượng Hoàng đế Lê Lợi đúc bằng đồng ở tư thế ngồi, tượng được đặt trên bệ đá. Tượng Hoàng đế Lê Lợi được đúc theo cơ sở mẫu tượng thờ vua Lê ở nhà Thái Miếu nhà Lê tại TP Thanh Hóa. Dáng tượng uy nghiêm lẫm liệt của 1 vị tướng mà vẫn nhân từ đức đạo của 1 đấng quân vương.
Tiếp theo là hai gian ban thờ chia hai bên tả, hữu gian giữa. Ban thờ thờ 17 vị tướng lĩnh tham gia trực tiếp vào trận đánh Xương Giang năm 1427 và 17 vị tướng không đúc tượng đồng mà lập bài vị để thờ.
Kế đó là ban thờ tiền quân và hậu quân Nghĩa quân Lam Sơn trong trận quyết chiến năm 1427. Ban thờ này có tính chất công đồng liệt vị, tưởng niệm tri ân các nghĩa sĩ Lam Sơn đã hy sinh vì đất nước.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, Chiến thắng Xương Giang được ghi danh với những chiến công oanh liệt. Nơi đây đã diễn ra trận công thành của Nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt hàng vạn quân Minh. Thực hiện chủ chương “vây thành diệt viện”, từ cuối năm 1426 Nghĩa quân Lam Sơn đã cho vây hãm thành, quyết tâm hạ thành trước khi viện binh của địch kéo sang. Nghĩa quân Lam Sơn đã cho đào hầm từ ngoài vào trong rồi tiến hành nội công ngoại kích. Sau hơn 9 tháng chiến đấu, thành Xương Giang đã bị hạ. Chiến thắng Xương Giang là điển hình của nghệ thuật quân sự “lấy ít thắng nhiều, lấy yếu đánh mạnh”. Là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và ý chí quyết thắng của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Xương Giang là niềm tự hào của quân và dân cả nước, góp phần chấm dứt 20 năm đô hộ của nhà Minh đối với Đại Việt. Mở ra những trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước vinh quang của dân tộc ta. Cũng từ chiến thắng ấy Vua Lê Lợi lập nên 1 triều đại mới, triều đại hậu Lê, đổi tên đất nước Đại Việt.
Với mùa xuân năm này, đã qua 590 năm nhưng khí thế chiến thắng Xương Giang như còn mãi vang dậy. Người dân Xương Giang từ nay tự hào hơn khi truyền thống cha ông được bao lớp thế hệ mai sau tiếp nối. Tiếng trống sấm mừng năm mới, mừng chiến công thắng trận năm xưa đã điểm. Đó cũng là tiếng trống khai hội chiến thắng Xương Giang. Tiếng ca, tiếng hát người ơi người ở đừng về vang khắp đó đây chén rượu mừng xuân Đinh Dậu.
Lễ hội Xương Giang được tổ chức hằng năm vào các ngày 6, 7 tháng giêng với quy mô lớn, nhiều địa phương tham gia, hình thức khai hội cũng được thay đổi theo từng năm. Qua lễ hội Xương Giang, lịch sử truyền thống hào hùng của cha ông thuở trước sẽ được khơi dậy và phát huy tốt đẹp trong lớp lớp con cháu mai sau./.
Minh Trang
NỔI BẬT
Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang
1- Thành phố Rạch Giá Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...
-
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐẠI DIỆN CỦA NHÂN LOẠI Vào hồi 17h15’ giờ địa phương (12h15’giờ Việt Nam) ngày 01 tháng 12 năm 2016, tại Phi...
-
Hệ thống Tam Phủ Tứ Phủ trong Tín ngưỡng thờ Mẫu đã có lịch sử hình thành, phát triển hơn nghìn năm theo dòng chảy lịch sử của dân tộc Việt ...
-
Đền Mẫu Thoải Lạng Sơn hay còn biết đến là đền Cửa Đông – một trong bốn ngôi đền thiêng trấn giữ quanh Thành cổ Lạng Sơn. Đền nằm ngay...