Thứ Hai, 4 tháng 9, 2017

Đế Minh, Đế Nghi, Kinh Dương Vương

Dịch lại Ngọc phả Hùng Vương, đoạn đầu tiên về ba vị Đế Minh thái tổ, Đế Nghi đế bá, Kinh Dương Vương hoàng phụ.


Xưa kia từ thời Hoàng Đế, cháu ba đời của Viêm Đế là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi tuần du phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh. Đế Minh gặp được con gái của Vụ Tiên nương, mà sinh ra Kinh Dương Vương, húy là Lộc Tục. Vua ở ngôi hai trăm năm mươi năm, thọ hai trăm năm mưới bảy năm. Hóa tiên về biển cùng với con gái Động Đình Quân là Ngọc Dung.

Vua có dung mạo đoan chính, thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh thấy có trí tuệ kỳ lạ, có ý lập kế tự, muốn truyền ngôi báu cai quản muôn nước. Nhưng Dương Vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, còn phong cho Kinh Dương Vương cai trị thiên hạ ở mặt Nam, xưa là quận Giao Chỉ. Kinh Dương Vương đổi thành động Xích Quỷ, tên là nước Xích.

Xưa Dương Vương vào ngày mồng năm tháng hai năm Nhâm Tuất, vâng lệnh đem quân lính dời đến núi Nam Miên, trấn giữ và cai trị đất nước. Trên đường Vua ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa, có đại cuộc chân long quý mạch, để lập đô ấp, trấn trị thiên hạ. Qua đất Hoan Châu (xưa là Hoan Châu, nay là Nghệ An) Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc phong cảnh tươi đẹp, như lâu đài muôn nhẫn, gọi là Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, xưa gọi là Cựu Đô Ngàn Hống. Vùng đất này non biển đúc linh, núi sông khe hồ hội chầu, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành cung điện lâu đài cửa ngọc, làm nơi cho bốn phương triều cống.

Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình, núi xanh nước biếc. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng, nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông đẹp núi lạ. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, theo từ động núi Ngũ Lĩnh Vân Nam của cả nước, tiếp gặp Ải Môn Ngưỡng Đức nước lớn, như hình chữ Bát. Xuyên núi thấu mạch dẫn tới Cao Bình, Lạng Sơn, Càn Hải chín châu. Các núi cao vút, bỗng nổi lên thành ba ngọn núi [Tam Đảo], rồng trắng giáng khí ở châu Thái Nguyên, chợ trời bàn đá [Thiên Thị Thạch Bàn], nước chảy khe trên, ngược núi ngược sông, mạch dẫn liên miên.

Đưa tới các châu Bảo Lạc, Bằng Du, Thu Vật, Lục Yên, đầu nguồn nước từ Hoàng Hà, Hán Giang, Lô Giang, Càn Thủy, mà chảy dẫn mạch giáng khí, gặp nước ròng mạch nhỏ Ải Môn, rồng dẫn đi xa, tới núi Nam Miên là đất Tuyên Quang, thế rõ từ núi Tụ Long, liền tới châu Thu Vật, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn.

Mạch đất chảy ở giữa chia trái phải. Sông Hán, sông Hoàng, sông Bảo hai bên dẫn mạch. Chảy tới Lâm Thao, Đoan Hùng, Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Long Hoa, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc. Núi lạ sông đẹp, ngọc tụ nước ngưng, chân đá giáp nước, trái phải cùng đổ về, là chính đường của vạn nhánh, hội tụ chính khí. Bên ngoài chia các huyện Nam Giang, Bắc Giang, Thiên Lịch Giang, Tô Lịch, Tam Dương. Bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung bên trái là rồng xanh, nghìn núi vạn sông chảy ra ở Lập Thạch, Bạch Nê, Châu Diên. Núi xanh nước biếc, đất sáng như mở ngọc bội, các núi giúp chuyển, tới xứ Kinh Bắc các núi Chu, Sóc, Trà, Từ, Mộc Hoàn, Tích An, An Lão phục chầu. Dẫn đến xứ Hải Dương các núi Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử, thoát ra biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.

Bên phải đất từ Ba Thục, Hán Giang, Hoàng Giang, Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười sáu châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, châu Đà Bắc, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung bên phải là hổ trắng. Núi chầu vạn nhánh, nổi lên ở Mỹ Lương, Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Viễn Sơn Thạch Thất, An Sơn, Tây Sơn, Sài Sơn, Tử Trầm, Hữu Bật đến xứ Sơn Nam Chương Đức, Đại Yên, núi Hương Tích sơn, núi Thạch Na, Nam Công, núi Vũ Phượng, núi Đội Điệp, núi Nghi Dương, chầu vào mà thoát, đến cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Vạn Lý, làm đầu hổ chầu án. Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy Ngã Ba Lãnh, Đại Giang, huyện Nam Giang làm Trung minh đường. Mặt nước như ấn ngọc trông phù vàng. Tiền Hải, Cổ Yếm, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.

Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất Bắc quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến đất bên nơi ngoại này, lập dựng đô thành Phong Châu, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại định đô ấp, vị trí của chính điện, thành trời ao vàng, ở núi Nghĩa Lĩnh, làm đô ấp của họ Việt Thường xưa tại đó.
Bấy giờ vua đi tuần thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Cung phi con gái đế quân là Thần Long cùng với Vua sống ở núi Kỷ Lĩnh, điềm rồng khí chính, thụy thánh có mang. Mang thai mười lăm tháng mười ngày. Đến kỳ mây rồng năm sắc giáng xuống chính điện. Vua sinh hạ Lạc Long quân, tên huý là Sùng Tục. Trước Long Quân có tỏ điềm rồng ứng tốt, ánh sáng đầy nhà, trong trướng tỏa hương thơm. Qua tuần sinh hạ Lạc Long Quân, tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương. Vua mới lập làm hoàng thái tử. Thái tử trưởng thành, tài năng hơn người, thông minh nhanh nhẹn, tài thần trí thánh, anh hùng hiểu biết. Năm tháng tăng thêm, Đế lệnh với triều đường trăm quan rằng: Ta thừa mệnh trời mà trị vạn dân, giữ yên cơ đồ, sắc lệnh cho Thái tử khâm sai cùng với trăm quan cử hành lễ đi tuần thú lãnh thổ, chính là để xem núi sông, những nơi biển non kỳ lạ. Vua khiến Thái tử điều trăm viên tướng mạnh, ba vạn binh tinh đi tuần thú nước nhà, xem xét bốn bể, địa thế núi sông.

Thái tử đi đến Nam Bang, thế đất theo núi sông dẫn mạch mà đến, lên núi tìm theo mạch rồng, tựu ở xứ Tuyên Quang, châu Thu Vật, Tụ Long, nhìn thấy mạch đất rồng chạy đến, Nghĩa Lĩnh đúc thiêng,  gặp qua thượng lưu sông Hoàng Hà, Nhị Hà, Đầu Giang, Hán Lô Giang, đầu nguồn một nhánh chảy ra, nuôi dưỡng che chở nước Nam, từ Tây rồng đến, từ châu Bảo Lạc núi Côn Lôn trên dưới hai bờ, cho đến cửa ải, nước lớn từ Ngũ Lĩnh, Thái tổ Côn Lôn của đất nước, đất tổ Linh Sơn Phong Thứu. Trăm vạn đầu núi dựa Đông Tây Nam Bắc, làm được như bầy con. Lấy Côn Lôn Ngũ Nhạc đại tổ quốc làm Thái tổ, cha mẹ, cùng vạn nước đầu núi góc biển, một mối quy đồng. Thái tử trí thánh thông minh, tài anh mưu lớn, là vị vua có chí trị, danh hiền Việt cổ.

Thái tử có tâm với các bậc tổ, quay về nước lớn thăm hỏi tổ là Đế Minh, bác là Đế Nghi. Thái tử là người có hiếu đễ lớn, trung tín khiêm nhường, có tam cương ngũ thường, là bậc có đức cả. Thái tổ mới đặt quốc thư phong cho Kinh Dương Vương là Thái Tổ Cao Hoàng Đế nước Nam, phong cho Lạc Long Quân là Hiền Vương nước Nam, cai trị Nam Bang. Vạn dân trong thiên hạ đều hân hoan, trăm họ yên vui. Đế tổ, Đế bá coi Thái tử như cốt nhục, xem như tinh túy đất trời, quý như châu ngọc vàng báu, vật quý cũng không bằng.

Đế tổ sắc phong tặng thêm cho Thái tử sách vàng, thẻ bài rồng, lụa ngọc, xe sách một mối, áo mũ chầu trời, áo bào cổn rồng, thắt lưng ngọc, giày vàng, cờ lọng quạt, ô vàng chiêng trống, xe loan giá rồng, voi ngựa tướng binh, lại ban cho đồ thần lụa vàng (vật quý lớn của trời Nam), ngọc châu mã não, quý lạ các vật, lại ban cho xe giá có chuông. Thái tử hồi giá khải hoàn về Nam Man, phụng giúp vua cha cai quản vạn dân.

Thời Thái tổ Đế Minh trong triều có vị Thiên sư biết thông trời đất người, xem thấy hết quỷ thần, chức vị ở Bắc triều là quan tướng, văn võ đều toàn. Nay theo lệnh Đế tổ sai Thiên sư giúp nước cho Thái tử cai quản Nam Bang, xem phong thủy, tìm đất lập nước định kinh đô, xây dựng thành trì, sửa sang chính điện, tạo nên cung thất, lãnh thổ đất đai, đặt tên sông núi, lập định ấp đô, địa đồ đất nước, sắp quan xếp tướng, đặt lệnh trấn các xứ, phủ, huyện, xã, châu, trang, động. Trên rừng dưới biển, nước có Thiên sư phụ giúp Vua cai trị bốn biển. Trăm họ nhân dân thiên hạ cùng hưởng phúc thái bình. Các chư hầu Bách Man đều xưng thần phụ thuộc.

Đền thờ Kinh Dương Vương

 Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương - Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh Đồng bằng sông Hồng

Hàng năm, cứ mỗi độ tết đến xuân về, hàng ngàn vạn “con Hồng cháu Lạc” từ khắp mọi miền lại tìm về khu di tích Đền thờ và Lăng mộ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ ở thôn Á Lữ, xã Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành – Bắc Ninh để tri ân và thờ phụng những bậc thủy tổ dân tộc đã có công khai mở đất nước.

Á Lữ là một làng cổ nằm sát bờ Nam sông Đuống, nơi duy nhất có lăng mộ và đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Lăng Kinh Dương Vương nằm ở trên bãi bồi cao rộng thoáng sát bờ Nam sông Đuống và sầm uất bởi rừng cây cổ thụ bao quanh. Trước kia, hai ngôi đền cổ ở phía Tây làng Á Lữ thờ phụng Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ (Đền Thượng thờ Kinh Dương Vương, đền Hạ thờ Lạc Long Quân và Âu Cơ), có quy mô kiến trúc to lớn, chạm khắc trang trí “tứ linh, tứ quý” lộng lẫy. Về phía Đông lăng Kinh Dương Vương xưa còn có một ngôi chùa có tên chữ là “Đông Linh Bát Nhã tự” thờ các đức “Thánh mẫu thủy tổ” là Vụ Tiên, Thần Long và Âu Cơ.

Ông Biện Xuân Phẩm (65 tuổi), người trông nom Đền thờ Kinh Dương Vương cho biết “Năm 1949-1952, giặc Pháp kéo đến thôn Á Lữ, đóng đồn bốt ở đây, phá hoại đền, đình chùa, dân làng đã kịp cất giữ một số đồ thờ tự cổ quý như: ngai, kiệu, sắc phong… của đền và đình. Đến năm 1971, nhân dân thôn Á Lữ đã tôn tạo khu Lăng mộ Kinh Dương Vương. Năm 2000, một ngôi đền chung thờ các bậc thủy tổ được phục dựng theo kiểu thức truyền thống”.

Trải qua bước thăng trầm của thời gian, hiện nay khu quần thể Lăng và Đền Kinh Dương Vương còn bảo lưu được kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể như: thần phả, sắc phong, bia đá, hoành phi, câu đối, tín ngưỡng, lễ hội. Tại lăng mộ Kinh Dương Vương còn bảo lưu được tấm bia đá ghi rõ “Kinh Dương Vương lăng”, niên đại “Minh Mệnh nhị thập nhất niên” (1840). Tại đền thờ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, hiện còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý giá như: ngai bài vị, thần phả, sắc phong, văn tế, hoành phi, câu đối. Hệ thống hoành phi, câu đối phản ánh ca ngợi về người được thờ như: “ Nam bang thủy tổ” (Thủy tổ nước Nam ), “ Nam tổ miếu” (Miếu tổ nước Nam )… Đặc biệt là 15 đạo sắc phong của các triều vua phong cho người được thờ là Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, với các niên đại khác nhau.

Trưởng Thôn Á Lữ Biện Xuân Sáng cho biết: Hiểu được giá trị của di tích văn hóa Khu quần thể Lăng và Đền Kinh Dương Vương, người dân trong thôn đã tích cực tham gia công tác bảo vệ di tích và hàng năm làm tốt công tác chuẩn bị cho Lễ hội để đón du khách thập phương về dâng hương, tưởng nhớ.

Để lo việc đình đám, ngay từ trong năm làng phân công việc cho quan đám và các giáp. Vào hội, ngay từ ngày 12 tháng Giêng, đền và đình được mở cửa để bao sái đồ thờ tự, phong cờ quạt. Đến ngày 16, làng tổ chức rước nước từ sông Đuống về đình đền để tế lễ quanh năm. Ngày 17, làng tổ chức rước kiệu từ đình xuống đền Thượng và đền Hạ để xin rước các bậc thủy tổ dân tộc về đình để tế lễ và mở hội. Từ ngày 18 đến 24, mỗi ngày một tuần tế. Lễ vật có lợn cả con, bánh trưng, bánh dày. Đến ngày 25, tế giã đám tại đền Thượng và đền Hạ bằng cá gỏi.

Nói về giá trị văn hóa của Di tích lịch sử Quốc gia Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương - Trưởng phòng Văn hóa thể thao huyện Thuận Thành Lê Xuân Bắc cho biết: Quần thể di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương là một trong những điểm du lịch văn hóa tâm linh tiêu biểu, hàng năm thu hút hàng vạn lượt du khách trong và ngoài nước hướng về cội nguồn. Đây là một quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia có giá trị văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng nói riêng và nhân dân cả nước nói chung. Hiện di tích còn lưu giữ nhiều hiện vật có giá trị về mặt lịch sử, văn hóa và nghệ thuật. Khu di tích nằm trong không gian thoáng rộng nhưng khá hiu quạnh, nên việc khai thác các giá trị văn hóa lịch sử gắn với quần thể di tích chưa được quan tâm đúng tầm. Đặc biệt, khu di tích chưa gắn kết với hệ thống các di tích lịch sử và các điểm tham quan du lịch khác trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh, được coi là quê hương của đền, chùa, miếu mạo. Do đó, việc quy hoạch và lập dự án bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích rất cần thiết.

Ông Nguyễn Văn Phong – Giám đốc Sở Văn hóa – thể thao và du lịch Bắc Ninh cho biết: Năm 2011, tỉnh Bắc Ninh đã phê duyệt Dự án đầu tư xây dựng công trình tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương và công bố quy hoạch bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử văn hóa quốc gia này với tổng mức đầu tư hơn 491 tỷ đồng.

Dự án chia làm 4 hạng mục xây dựng chính gồm: Không gian bảo tồn di tích, tập trung tu bổ, tôn tạo di tích Lăng và Đền thờ Kinh Dương Vương, sân đền, vườn khu lăng mộ; không gian giá trị di tích gồm: Tượng đài thủy tổ, quảng trường văn hóa lễ hội, nhà trưng bày văn hóa... và các dịch vụ phụ trợ để phát triển du lịch văn hóa tâm linh, thu hút du khách và hạ tầng kỹ thuật, san nền, đường giao thông, đường điện... Theo đó, từ nay đến năm 2019, dự án sẽ hoàn thành và đi vào hoạt động./

PhuthoPortal (Nguồn Website ĐCSVN)

Chủ Nhật, 3 tháng 9, 2017

Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn

Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn nằm ở thôn Việt Thắng, xã Hòa Lạc, Hữu LũngĐây là đền thờ Quan lớn Đệ Nhị, hay còn gọi là Quan Giám Sát, Quan Giám Sát Đệ Nhị, Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát..Ngôi đền chỉ nằm cách đường 1 khoảng 300 m, cách Hà Nội 110 km.


Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn
       Tương truyền rằng Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn ở huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn là nơi Quan trấn giữ miền Sơn Lâm còn Đền Quan Giám ở Phố Cát, Thanh Hóa là nơi Quan giáng hạ dạo chơi, Đền Quan Lớn Đệ Nhị ở Thái Bình là nơi ngài hiện thân phò vua Bát Hải Động Đình đánh giặc Thục. Quan Giám sát được giao quyền giám sát cai quản sơn lâm, nên Ngài còn được gọi là Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn.

Lịch sử Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn

        Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn có từ rất xa xưa, nhưng chính thức từ bao giờ thì chưa rõ. Chỉ biết trước đây, ngôi đền còn rất đơn sơ, chủ yếu bằng tranh nứa lá, số cung thờ và tượng thờ ít ỏi. Sau nhiều lần tu bổ đền mới được khang trang như ngày nay.


        Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn thuộc quyền quản lý cha truyền con nối của dòng họ Hoàng - các con cháu của thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh. Nơi đây cũng còn là nơi thờ của Hoàng Đình Kinh. Trước đây, Hoàng Đình Kinh được thờ ở ban Thành Hoàng trong đền. Đây là điều mà mọi người đi lễ rất ít để ý. Hiện nay, ban quản lý nhà đền đang cho xây Nhà Thờ Tổ bên phải của đền. Nhà Thờ Tổ chính là nơi thờ tổ của họ Hoàng và thờ Hoàng Đình Kinh.
       Chính vì vậy, có người cho rằng hiện thân của Quan Giám Sát chính là thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh. Đây là điều ít người biết.
      Thân thế thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh
      Năm 1962, ông tham gia cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn của Cai Vàng. Sau khi lực lượng của Cai Vàng bị giải tán, ông sang Vân Nam (Trung Quốc) chiêu tập binh mã, rồi đem bộ hạ về nước cát cứ vùng rặng núi miền thượng du sông Thương, Lạng Sơn để chống Pháp.

Nhà Thờ Tổ họ Hoàng thờ Hoàng Đình Kinh đang được xây dựng ở bên phải Đền Giám Sát
       Ông tổ chức đội quân rất có quy củ nên gây được thanh thế lớn. Các nghĩa quân chiếm cứ một vùng đất rất lớn ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Quân Pháp nhiều lần tiến đánh nhưng đều bị thảm bại. Quân Pháp đổi chiến thuật, mua chuộc chia rẽ nghĩa quân. Năm 1887, quân Pháp mở cuộc tấn công lớn vào trung tâm nghĩa quân. Dựa vào địa thế hiểm trở, Cai Kinh đã đánh nhiều trận diệt nhiều sinh lực địch. Cuối năm 1887, Cai Hai, em ruột Cai Kinh, bị quân phản loạn ám sát. Quân Pháp cho đào mồ mả nhà Cai Kinh ném xuống sông Hóa.
       Nghĩa quân Cai Kinh bị nội gián chỉ đường liên tục bị đánh úp hao tổn nặng nề và dần dần tan rã. Cuối cùng Cai Kinh bị bắt ở gần biên giới Việt Trung. Năm 1888, Cai Kinh bị giặc Pháp hành quyết. Như vậy, cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh kéo dài 26 năm. Đây là một trang anh hùng của dòng họ Hoàng nơi đây, và cũng là niềm tự hào kiêu hãnh của vùng đất này. 

Kiến trúc thờ đền Quan Giám Sát Lạng Sơn

        Ngoài sân đền có cung thờ Cậu Bé Cây Mít. Gọi là Cậu bé Cây Mít có lẽ bởi cung cậu nằm kế bên cây mít cổ thụ lâu đời, chi chít quả. Giữa sân là một lư hương bắng đá.
Lầu Cậu Bé Cây Mít
        Đền có ba gian thờ: Tiền bái, Trung Bái và Đại Bái. Gian Tiền Bái gồm có: Chính giữa là Ban Công Đồng, bên phải là cung Chầu Đệ Nhị, bên trái là cung Sơn Trang.

Cung Chầu Đệ Nhị

   Gian Trung Bái chính giữ thờ Vua Cha Ngọc Hoàng cùng quan Nam Tào, Bắc Đẩu; bên phải thờ Đức Trần Triều; bên trái là cung Thành Hoàng. Chính cung này ngày trước thờ thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh.
Cung Thành Hoàng

       Gian Đại Bái chính giữa thờ Quan Lớn Giám Sát; bên phải là thờ Quan Hoàng Bẩy, Quan Hoàng Mười; bên trái thờ quan Hoàng Đôi, Quan Hoàng Bơ. Như vậy, theo cách thờ này có thể coi Tứ Phủ Quan Hoàng là hầu cận của Đức Quan Giám Sát.

 Thần tích Quan Giám Sát

      Quan Lớn Đệ Nhị là Quan đứng thứ hai trong Ngũ Vị Tôn Ông. Quan Lớn Đệ Nhị vốn là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Có truyền thuyết cho rằng Ông có hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung, nhưng hạ phàm triều nào và hạ phàm nơi đâu thì không thấy nói tới.
       Ông là người văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được khắp muôn nơi ngưỡng mộ, các vương tôn công tử đều thuận tình đến làm học trò. Đến khi về chầu Thiên Đình, ông lại được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm, Thượng Ngàn. Ông giáng thế ban phúc cho dân, khi dân chúng bị hạn hán, cầu đảo ông thì lập tức có mưa thuận gió hòa.

Cung Quan Giám Sát

      Quan Lớn Đệ Nhị hầu như không tìm thấy tư liệu về thần tích của Ngài. Căn cứ theo các văn hầu từ thời xưa để lại chúng ta có thể mường tượng về Ngài như sau:
         Ông vốn là ở cõi Thiên Đình, con vua Ngọc Hoàng được giáng xuống trần gian trong một gia đình quý tộc. Ngay từ thủa nhỏ Ngài đã giỏi văn thơ và nổi tiếng thông minh, không ngoan:
Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan.
       Đến hạn về thiên, trời bỗng nổi mưa gió, bão bùng. Thủy thần đã đến rước Ngài đi. Về chốn Thiên Cung ông có nhiệm vụ "Quản tam giới quyền cai giám sát" chuyên lo về sổ sách sinh tử của cõi trần gian:
Sổ hội đồng một tay nắm giữ
Số trần gian sinh tử sót ai.
     Ông chính là vị thánh chuyên cân đong tội, công và điều chỉnh họa phước cho các sinh linh trong cõi trần thế.
Rút dây tội phước cân người tội công.
        Ông còn là một vị thánh văn võ song toàn:
Võ thời ví với Đức Quan
Văn thời sánh ví Mạnh Nhan thay là.
        Ông còn giỏi cờ, thi ca, phú họa:
Cờ Tiên một đấu thơ vài trăm thiên.
       Ông là một vị thánh anh minh, độ lượng, hết lòng cứu giúp cho mọi sự an khiên, bất hạnh của cõi dương gian:
Dù ai hữu sự kêu van
Khấn Quan Đệ Nhị thọ khang yên lành
        Đó là một vị thánh nổi tiêng trong tứ phủ bởi sự thông minh, chính trực, luôn một lòng độ cho nước cho dân:
Thông minh chính trực, giúp nước phù đời
Quyền sơn lâm cai khắp mọi nơi
Vâng ngọc chỉ giáng thần Nam Việt
Anh hùng hào kiệt, độ khắp vạn dân.

Quan Hoàng Đôi, Hoàng Bơ hầu cận bên Quan Giám Sát

        Quan Đệ Nhị Giám Sát là một trong ba vị quan lớn rất hay ngự về đồng. Khi ngự đồng, ông mặc áo xanh thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm. Cũng như Quan Đệ Nhất, khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ. Ngoài ra vào những dịp đại lễ như mở phủ khai đàn, tạ phủ…, trước ngày làm lễ, người ta thường thỉnh Quan Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ.

Đền thờ Quan Hoàng Bơ

 Đền thờ Quan Hoàng Bơ ở đâu ?

Do có nhiều thần tích về Quan Hoàng Bơ nên khó xác định đâu là đền thờ chính của Quan Hoàng Bơ. Tuy nhiên, có lẽ có 4 nơi thờ ông Hoàng Bơ chính mà chúng ta có thể quan tâm:

  • Đền Quan Hoàng Ba – Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa;
  • Đền Hưng Long tại Thái Bình là hai nơi có thần tích.
  • Một ngôi đền nữa thờ Quan Hoàng Bơ đó là đền Vạn Ngang – Đồ Sơn – Hải Phòng nơi ghi nhận sự hiển linh của Ngài.
  • Đền Cờn (nay là đền Quan Hoàng Chín) trước đây có người cho là đền chính của Ngài.

Ngoài ra, Quan Hoàng Bơ được hầu hết phối thờ trong các đền trong cung Tứ Phủ Quan Hoàng hoặc ban thờ riêng. Trong cung Tứ phủ Thánh Hoàng, Quan Hoàng Bơ thường phối thờ với Quan Hoàng Bảy và Quan Hoàng Mười.

Chuyện Về Mẫu Liễu Hạnh và Tín ngưỡng thờ mẫu trong văn hóa người Việt

Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời và phổ biến tại Việt Nam. Khởi nguồn của tín ngưỡng ngày xuất phát từ sự biết ơn đối với người phụ nữ, người mẹ trong nhận thức thuở khai sơ của con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu thể hiện sự tin tưởng, ngưỡng mộ, tôn vinh và thờ phụng những vị Nữ thần gắn liền với các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, được người đời cho rằng có chức năng sáng tạo, sản sinh, bảo trợ và che chở cho cuộc sống của con người như: trời, đất, sông, nước, rừng núi....

Ngoài ra, nhân dân ta còn thờ những Thái hậu, Hoàng hậu, Công chúa, Nữ tướng, những người mẹ khi còn sống tài giỏi, có công với dân, với nước, khi mất về phù hộ cho người an, vật thịnh.

Tín ngưỡng thờ Mẫu trong văn hóa người Việt

 

Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời và phổ biến tại Việt Nam

 
Hiện nay, tại Việt Nam có khoảng 75 vị nữ thần tiêu biểu, trong đó có ba vị Nữ thần tồn tại trong truyền thuyết như ba chị em, con của Ngọc Hoàng giáng trần được phân công cai quản ba miền. Miền Bắc với sự nổi trội của Chúa Tiên (Thánh Mẫu Liễu Hạnh – Vân Cát Thần nữ), miền Trung với Thiên Y A NA Diễn Phi Chúa Ngọc (tiếp biến với hình ảnh Nữ thần Ponagar – Người Mẹ đất nước – Mẹ xứ sở dân tộc Chăm) và miền Nam với Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen hay còn gọi là Bà Thâm, Bà Đanh, Bà Đênh), tất cả đang cư ngụ trong lòng tin của những tín đồ thờ Mẫu hiện nay ở Việt Nam.

Người dân Đại Việt xưa đều thờ Tam toà Thánh MẫuTục thờ Mẫu của người Việt ra đời trên cơ sở tục thờ nữ Thần; các vị được thờ trong các đền, chùa, miếu, điện, đặc biệt có vị được thờ trong một loại hình kiến trúc riêng (Phủ) như việc thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh.


Theo chiều dài lịch sử lâu đời ở nước ta, tín ngưỡng thờ Mẫu đã phát triển có Tam Phủ, Tứ Phủ. Trong làng xã và đô thị miền Bắc từ xa xưa, trong hệ thống Tam Phủ, Tứ Phủ đều thờ các Thánh Mẫu rất tôn nghiêm.

  + Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Đệ Nhất) cai quản miền trời và làm chủ mây mưa, sấm chớp; trong điện thờ thường đặt ở giữa, mặc áo màu đỏ hoặc hồng.

  + Mẫu Thượng Ngàn (còn gọi là Mẫu Đệ Nhị) cai quản miền rừng núi, cây cối; trong điện thờ thường đặt ở bên trái Mẫu Thượng Thiên, mặc áo màu xanh.

  + Mẫu Thoải (còn gọi là Mẫu Thuỷ, gọi chệch là Mẫu Thoại – Mẫu Đệ Tam) cai quản miền sông nước; trong điện thờ thường đặt ở bên phải Mẫu Thượng Thiên, mặc áo màu trắng.

 

Hình ảnh tượng trưng của ba Thánh Mẫu trong tâm thức của người Việt

Với tư tưởng Âm Dương - Tam Tài - Ngũ Hành, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật, thì Mẫu là nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam. Điều đó có nghĩa là từ Mẫu Thiên mà tự đối ứng hoá thành Mẫu Địa (Mẫu Thượng Ngàn) – thứ hai, rồi lại hoá thành Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) – thứ ba, chính vì thế mới có tên là Tam toà Thánh Mẫu. Nơi thờ Tam toà Thánh Mẫu – chúa tể Tam Phủ là Thiên phủ, Địa phủ, Thuỷ phủ gọi là Tam phủ.

Vì Tam phủ thờ cả Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào – Bắc Đẩu, Ngũ vị quan lớn, Tứ vị chầu Bà nên thường được gọi là Tam phủ cộng đồng hay Tứ phủ vạn linh. Phủ thứ tư là để thờ các vị thần linh khác.

 

Tam phủ thờ cả Ngọc Hoàng Thượng đế, Nam Tào – Bắc Đẩu, Ngũ vị quan lớn, Tứ vị chầu Bà

Chuyện về Mẫu Liễu Hạnh
 

Hình ảnh của thánh mẫu Liễu Hạnh trong suy nghĩ của người Việt 
 
  + Lần giáng sinh thứ nhất

Liễu Hạnh công chúa
 là một trong những vị thần quan trọng của tín ngưỡng Việt Nam, là người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ Bà. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Liễu Hạnh, Mẫu Liễu Hạnh hoặc ở nhiều nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Thánh Mẫu.

Truyền thuyết kể rằng Mẫu Liễu Hạnh vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng, được giáng sinh ba lần xuống trần. Lần thứ nhất Bà đầu thai thành con gái của hai vợ chồng già quê ở Nam Định là ông Phạm Huyền Viên và bà Đoàn Thị Hằng, dù sống hiền lành, tu nhân tích đức ngoài 40 tuổi chẳng có nổi một mụn con.

Một đêm rằm tháng hai, ông bà được thần báo mộng là Ngọc Hoàng sẽ cho con gái thứ hai đầu thai làm con, từ đó bà có thai. Trước khi sinh, vào đêm ngày 6 tháng 3 năm Quý Sửu, trời quang mây vàng như có ánh hào quang. Ông Huyền Viên ngồi đợi tin mừng, bỗng như có một nàng tiên từ trong đám mây bước xuống thềm nhà, và Bà sinh một bé gái. Vì vậy ông đặt tên con là Phạm Tiên Nga.

Phạm Tiên Nga càng lớn càng xinh đẹp, mọi việc nữ công gia chánh đều thành thạo, đảm đang. Đến năm 15 tuổi đã có nhiều người đến dạm hỏi nhưng nàng đều khước từ vì nàng còn phải ở nhà chăm sóc cha mẹ già yếu, canh cửi quán xuyến công việc gia đình. Tuổi già cũng đến, cha mẹ nàng Tiên Nga cũng về nơi tiên cảnh. Sau đó, nàng bắt đầu chu du khắp nơi làm việc thiện, giúp ích cho đời và mất vào năm 40 tuổi ( thời Hồng Đức năm 1473).


 

Phủ Quảng Cung là một trong những nơi thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh

  + Lần giáng sinh thứ hai

Lần giáng sinh thứ hai Mẫu Liễu Hạnh làm con của ông Lê Thái Công và bà Trần Thị Phúc, quê Nam Định, cách quê cũ khoảng 7 km. Sau khi sinh Bà, ông Lê Thái Công nhìn mặt con, thấy nét mặt giống nàng tiên nữ bưng khay rượu trong bữa tiệc chúc thọ Ngọc Hoàng mà ông mơ trước đó nên đặt tên cho con là Lê Giáng Tiên.

Lần này, công chúa Liễu Hạnh kết duyên với ông Trần Đào Lang sinh được một người con trai, tên là Nhân, một con gái tên là Hoà. Giữa lúc cả gia đình đang đầm ấm vui vẻ thì bỗng nhiên bà mất, năm ấy, bà chỉ mới 21 tuổi năm Đinh Sửu (1577), tuyệt nhiên không bệnh tật gì.


 

Hội Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào ngày 3 tháng 3 âm lịch. Lễ hội nhằm tổ chức nghi lễ, thắp hương biết ơn Thánh Mẫu Liễu Hạnh

  + Lần giáng sinh thứ ba

Truyền thuyết kể rằng, vì tình nghĩa thủy chung với chồng con ở trần thế nên đến năm Canh Dần (1650), Thánh Mẫu Liễu Hạnh lại giáng sinh tại đất Tây Mỗ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa vào ngày 10 tháng 10, tái hợp với ông Trần Đào lúc này đã tái sinh là Mai Thanh Lâm, sinh được một con trai.

Bà mất ngày 23 tháng Chạp năm Mậu Thân (1668). Năm ấy bà vừa 18 tuổi. Lần giáng trần thứ ba của bà là vào lúc Trịnh Nguyễn phân tranh, nhân dân lầm than cơ cực. Bà đi khắp nơi để cứu nhân độ thế, trừng trị kẻ ác. Bởi thế, nhân dân lập đền thờ ở nơi nàng giáng trần (đền Sòng, Thanh Hóa).

Những lần giáng trần, nàng lấy hiệu là Liễu Hạnh, ngao du sơn thủy, thưởng lãm cảnh đẹp hùng vĩ của đất nước và gặp gỡ, giao lưu với biết bao người, nhất là những tao nhân mặc khách (trong đó có Phùng Khắc Khoan để rồi cuộc gặp gỡ này lưu lại vết tích là phủ Tây Hồ).

>>> Đọc thêm: Bánh Cuốn Trên Cao Nguyên Đồng Văn 

 

Điện thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong phủ Tây Hồ, nơi ghi dấu cuộc gặp gỡ của Bà và Phùng Khắc Khoan

Cũng có tích kể rằng thời vua Lê Thái Tổ (1385-1433) trị vì, Liễu Hạnh từng mở quán bán hàng cho khách bộ hành ở chân Đèo Ngang. Tiếng đồn về một cô gái xinh đẹp bán hàng nơi heo hút ấy khiến cho bao kẻ tò mò, trong đó có vị hoàng tử đương thời. Vị này tìm đến quán hàng bán nước với ý đồ xấu xa nên đã bị nàng Liễu Hạnh làm cho dở điên dở dại.

Nhà vua nhờ sự giúp đỡ của tám vị Kim Cương đã lừa bắt được Tiên Chúa. Họ đưa Tiên Chúa về kinh để hỏi tội. Sau khi nghe Tiên Chúa kể lại hành vi của Hoàng tử, Nhà vua hổ thẹn, bèn tha mạng cho nàng, sau đó nói lời cảm tạ rồi chúc Tiên Chúa lên đường may mắn. 

 

Đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh tại Đèo Ngang 

Trong đạo MẫuBà Chúa Liễu Hạnh được suy tôn là Thánh Mẫu tối cao, hóa thân của Đệ Nhất Thánh Mẫu Thượng Thiên, được thờ ở chính giữa trong Tam tòa Thánh Mẫu. Trong tín ngưỡng dân gian nói chung, bà là một trong Tứ bất tử, họ là những người sinh ra trong thời xã hội rối ren, sự xuất hiện của họ như là một chốn nương tựa cho người dân cơ cực về mặt tâm linh.

Sự xuất hiện của Thánh Mẫu Liễu Hạnh được xem là dấu ấn của đạo Mẫu và chế độ Mẫu hệ, qua đó cho ta thấy được vị trí quan trọng của người phụ nữ trong tâm thức của người Việt. 

Đền Cấm Tuyên Quang

Đền Cấm Tuyên Quang tọa lạc xóm 16, xã Tràng Đà, Tuyên Quang. Đền Cấm Tuyên Quang còn gọi là Đền Núi Cấm bởi ngôi đền nằm ngay dưới núi Cấm. Đây là một ngôi đền độc đáo, linh thiêng, cảnh đẹp sơn thủy hữu tình.

 

Đền Cấm Tuyên Quang

      Đền Cấm thờ Mẫu Thượng Ngàn và nơi đây cũng là ngôi đền độc đáo thờ Thần Xà. Đền Cấm nằm cách trung tâm thành phố Tuyên Quang chừng 4 km. Cùng với Đền Thượng (đền Núi Dùm) tạo thành một cụm di tích tâm linh linh thiêng cỡ nhất vùng Tuyên Quang. Đền được công nhận di tích lịch sử tâm linh cấp tỉnh năm 2007.

Lịch sử Đền Cấm Tuyên Quang

       Vào đầu thế kỷ 20, ngày đó, rừng rú hoang rậm, thú rừng thường xuyên tìm về quấy phá cuộc sống người dân. Có cụ Nguyễn Hữu Chu là người ở nơi đây thường xuyên vào chân núi Cấm khai phá, trồng trọt.

Thế nhưng, ruộng nương thì bị khỉ, lợn rừng phá; lợn, gà, dê, bò thì bị hổ vồ. Ông cụ Chu đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ ở chân núi Cấm để thờ thần rừng, thần núi, cốt thú rừng đỡ phá phách. Ngôi miếu rất đơn sơ, chỉ gồm 4 cây tre và mấy tấm ván gỗ làm mái. Bên trong ngôi miếu có bát hương. Điều kỳ lạ, là từ khi ngôi miếu lập nên, thú rừng không về phá phách cuộc sống người dân ở chân núi Cấm nữa.

 

Thần Xà ở mỏm "Non bộ" tự nhiên tại Đền Cấm

 

 

         Ông cụ Chu làm nghề đông y, nên nhiều người bệnh tìm đến để được ông chẩn bệnh, bốc thuốc. Không rõ do ngôi miếu linh thiêng, hay tài bốc thuốc, mà nhiều người khỏi bệnh. Ngoài việc nhiều người tìm vào tài bốc thuốc của cụ Chu, thì nhiều người đồn thổi ngôi miếu ở chân núi Cấm linh thiêng, nên tìm đến cầu cúng rất đông.

 

        Vì ngôi miếu nhỏ nổi tiếng quá, nên người ta tìm đến hầu đồng. Tuy nhiên, cụ Chu là người ghét mê tín dị đoan, nên đã cấm tiệt những trò đồng bóng. Cụ vốn đặt tên ngôi miếu là Xâm Lĩnh Linh Từ, nhưng vì cấm trò đồng bóng, nên đổi tên ngôi miếu thành Miếu Cấm. Sau này, sau nhiều lần tu bổ ngôi miếu trở thành ngôi đền khang trang, tố hảo như hôm nay. Đền Cấm có tên từ đó.

 

Thần Xà trong Đền Cấm

        Điều kinh ngạc, là từ khi xuất hiện ngôi miếu nhỏ, thì rắn ở khắp nơi tìm về quả núi này. Rất nhiều loài rắn, loài trăn mò về ngôi miếu trú ngụ. Chúng không chỉ phơi nắng trên các mỏm đá, mà còn thường xuyên bò vào trong đền, quấn trên xà nhà. Chúng rất hiền lành, chưa tấn công ai bao giờ. Chúng cứ ở trong đền, mặc người vào ra, cúng bái, hành lễ. Nhiều khi, chúng ở trong đền vài tiếng, rồi mới lại thong thả bò vào núi và trốn vào hang sâu.

       Ngày trước, rắn về nhiều đến mức, có nhiều lần người đến miếu, thấy bát hương cứ lục ục, rồi những chiếc nón treo trên mái đền đong đưa, hóa ra rắn bò lổm ngổm ở trong.

      Cũng vì ngôi miếu có “xà thần”, nên khách thập phương tìm đến lễ và cúng tiến để miếu thờ rắn, đắp cả tượng rắn rất lớn.

      Cũng chính vì vậy, ngôi đền ngoài việc thờ Mẫu Thượng Ngàn thì cũng là nơi thờ Thần Xà.

Không gian kiến trúc Đền Cấm Tuyên Quang     

        Ngay trên tam cấp lên đền là hòn "non bộ " tự nhiên với ông Thàn Xà to lớn nửa trên mỏm đá, nửa trong hang thật uy linh. Ngay trong đền có một chiếc giếng nhỏ gọi là giếng Cô. Giếng Cô quanh năm không bao giờ cạn. Người dân ở đây truyền nhau rằng: Ai uống nước giếng Cô thì sẽ luôn khỏe mạnh.

        Gian giữa đền Cấm đặt tượng Bà chúa Thượng ngàn gọi là Lâm Cung Thánh Mẫu, phía trước có hai trụ biểu. Phía trên án thờ treo bức đại tự Linh Lâm Miếu bằng gỗ. Tiếp đến là bức cuốn thư với ba chữ “Tối linh từ”. Trước án đặt hai bức tượng ở thế đứng, kích thước như người thực, mặc võ phục, tay cầm kiếm. Đó là tượng Khuyến thiện và Trừ ác. Hai vị đứng đó như khuyên bảo khách thập phương hãy vứt bỏ tà tâm, giữ lòng thanh bạch trước khi bước vào cõi linh thiêng này.

       Bà Chúa Thượng ngàn tạc ở tư thế ngồi, đầu đội mũ tì lư, khoác áo choàng màu xanh của núi rừng. Khuôn mặt bà chúa toát lên vẻ vị tha, nhân ái. Phía dưới án là ban thờ ngũ hổ tướng quân, oai phong lẫm liệt, 

Những câu chuyện linh thiêng về Thần Xà ở Đền Cấm Tuyên Quang

       Đền Cấm Tuyên Quang quá nổi tiếng về các câu chuyện linh thiêng về thần thần xà (thần rắn). Leo hết bậc tam cấp để lên đền chúng ta bắt gặp ngày một vách núi. Dưới chân vách núi là mỏm đá nhô lên như hòn non bộ nhân tạo, án ngữ trước Lầu Cô Bơ, chúng ta đều phải dựng tóc gáy bởi con rắn khổng lồ, thân to bằng cái phích, bành mang với vẩy tua tủa sau đầu, mắt mở thao láo nhìn xuống phía chân núi. Con rắn bằng bê tông ấy được đắp giống hệt rắn thật, chui từ trong hõm núi ra, thân quấn quanh mấy khối đá, rồi dựng đầu lên. Nhiều người nhìn thấy “ông rắn” ấy, thì chắp tay, khom người, cúi đầu vái lia lịa, rồi khói hương nghi ngút dưới chân rắn. 

       Người ta đồn thổi rằng nhiều người hiếm muộn, chữa trị, bệnh viện chục năm không ăn thua, đến cầu “ngài”, thế mà mấy tháng sau đã thấy sắp lễ tạ ngài vì mang bầu. Hay cầu xin đỗ đại học, cầu phát đạt thì đều được. 

 

 

       Người dân ở đây bảo rằng, không chỉ “báo oán” những khách vãng lai qua đền xúc phạm “rắn thần”, mà ngay cả những người trong xóm 16, thuộc xã Tràng Đà cũng không ít lần mạo phạm bị “thần rắn” hành cho khổ sở. 

       Bà Tự, người dân trong xóm kể rằng, cách đây chừng chục năm, chồng bà lên núi Cấm lấy củi, thì gặp rắn lạ to bằng cái điếu cày, đầu đỏ, đuôi đỏ thẫm nằm phơi nắng trên mỏm đá. Chồng bà vốn chả mê tín, không tin chuyện “thần xà”, nên ông rút que củi dài, to bằng bắp tay vụt một nhát rất mạnh vào sống lưng “ngài”. 

       Bình thường, một cú vụt trúng sống lưng như thế, thì rắn to cỡ nào cũng gãy xương sống mà quằn quại, không chạy được, nhưng đằng này, con rắn lạ ấy chẳng hề gì. Mặc cho ông vụt tới tấp, con rắn vẫn bình tĩnh như không, chậm chạp trườn vào trong hốc đá và mất tích. 

       Điều kỳ dị, là đêm hôm ấy, chồng bà Tự không ngủ được, cứ mơ thấy rắn quấn quanh người. Sáng ra, toàn thân ông cứng đờ, không dậy nổi, cứ nằm bất động. Ông kêu lưng đau như gẫy xương, không thể cong lưng ngồi dậy. 

       Gia đình hãi quá, thuê xe đưa ông xuống bệnh viện tỉnh. Điều kỳ lạ là dù chiếu chụp kiểu gì cũng không phát hiện ra bệnh. Nghe chồng kể chuyện hôm trước lên núi gặp loài rắn mà dân cư trong vùng vẫn gọi là “ngựa ngài”, là “thần xà”, ông có dùng gậy đập cho ngài mấy cái, bà Tự mới hoảng hồn khóc lóc thở than. 

       Bà Tự tin rằng “thần xà” đã “báo oán”, nên ngay lập tức bà sắm lễ lớn, đến đền Cấm xin “ngài” thứ lỗi cho ông chồng có mắt mà không nhìn thấy thánh thần. Điều kỳ lạ, là cúng xong, thì nhận ngay được điện thoại của con cái, thông báo tự dưng chồng bà ngồi dậy được, đi lại như thường, không kêu đau lưng gì nữa.

     Còn rất nhiều những lời đồn rợn người liên quan đến loài rắn ở núi Cấm này. Lời đồn kinh dị nhất là cái chết của ông S., thợ bắt rắn, người xóm bên. Ông S. đã tóm được con rắn lạ có đầu đỏ, đuôi đỏ ở núi Cấm, liền cho vào bao xách ra chợ bán. Khách đến mua rắn, ông S. đổ con rắn ra. 

       Vừa trút con rắn ra, thì cả ông S. và người mua rắn đều táng đởm kinh hồn, khi con rắn ông bắt được chuyển màu đỏ lòm như máu từ đầu đến đuôi, đôi mắt như hòn than tóe lửa và cái mào mọc lên đỏ lòm như mào gà chọi. Mọi người đều tin con rắn đã hóa “thần xà”. 

        Cả ông S., người mua rắn và những người trong chợ nháo nhào, bỏ chạy. Lát sau, mọi người mò đến, thì không thấy con rắn đâu nữa. Sau hôm đó, ông S. ốm nặng, rồi thời gian sau thì qua đời.

       Bà Nguyễn Thị Báu, nhà ở chân núi Cấm thì kể chuyện về anh Cường, sinh năm 1973, người cạnh nhà bà. Anh này cũng chẳng biết sợ ma quỷ, thánh thần, nên mặc ai khuyên can, tóm ngay con rắn lạ ở đền Cấm, to bằng cổ tay. Anh này cho vào túi vải, treo lên dây thép phơi quần áo ở ngoài sân, để hôm sau làm thịt mời bạn bè trong xóm đến nhậu. 

        Hôm sau, khi mở túi vải, thì điều kinh dị xảy ra trước mắt: Con rắn không thấy đâu, mà chỉ có con lươn đen sì, to bằng cổ tay. Anh Cường hãi quá, liền thả con lươn xuống hồ, rồi ốm bẹp giường chiếu cả tháng. Người nhà đã mời thầy, làm lễ rất nhiều lần ở đền Cấm, nhưng anh Cường  vẫn không được tinh khôn, nhanh nhẹn như xưa.

Đặc sản của vùng Đền Cấm Tuyên Quang

        Du khách đến Đền Cấm Tuyên Quang không chỉ chiêm ngưỡng, ngắm cảnh đền với dải núi non trùng điệp mà còn rất thích mua những sản vật của địa phương như: Mật ong rừng, măng khô, nấm hương, phấn hoa, gà chọi, gà mèo, gà tre, lợn lửng, cua đá, cơm lam, gạo nương; các loại rượu thuốc ngâm rễ mật gấu, sâm cau, sâm cò khỉ, tầm gửi nghiến. Nơi đây, còn có một đặc sản mà không nơi nào có đó là bánh củ chuối rừng được làm từ tinh bột củ chuối rừng trộn thêm bột gạo nếp. Nhân bánh có đỗ xanh, cùi dừa nạo, thêm một ít thịt mỡ luộc tẩm đường phơi khô. Ăn bánh có vị chua, ngọt, thơm của chuối rừng, ngậy bùi của nhân bánh. Đây là một loại bánh rất được các du khách ưa thích.


NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...