Thứ Năm, 31 tháng 8, 2017

BÀ CHÚA XỨ NÚI SAM Ở VÙNG CHÂU ĐỐC AN GIANG

Châu Đốc, An Giang trước đây có tên là “vùng Thất Sơn”. Đây là địa danh ẩn chứa nhiều điều kỳ bí. Nhắc đến Châu Đốc thì không thể không nhắc đến chùa Bà Chúa Xứ nổi tiếng linh thiêng khắp cả nước. Án ngữ ngay cửa ngõ vào vùng Thất Sơn, từ nhiều năm qua, miếu bà chúa Xứ Núi Sam luôn giữ kỷ lục về lượng khách tham quan chiêm bái với hơn 4 triệu lượt người mỗi năm. Người ta đến viếng Bà với lòng tôn kính, sùng bái trước bao truyền thuyết về tượng Bà Chúa Xứ. 

1. Nguồn gốc tượng bà Chúa Xứ chứa nhiều giai thoại

Theo truyền thuyết, tượng phật bà Chúa Xứ là một pho tượng cổ rất thiêng nằm trên đỉnh núi Sam từ rất lâu. Lịch sử về nguồn gốc pho tượng bà Chúa Xứ có nhiều giả thuyết chứa đựng nhiều điều bí ẩn còn lưu truyền đến ngày nay.

Giả thuyết 1: Vào năm 1941, nhà khảo cổ người Pháp đã đến miếu bà chúa Xứ Núi Sam khảo sát rất tỉ mỉ và kết luận tượng bà thuộc loại tượng thần Vishnu, nguồn gốc từ Ấn Độ. Tượng bà chúa làm bằng chất liệu đá Sa Thạch có giá trị nghệ thuật cao, ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6.

Giả thuyết 2: Trong chương trình khảo cổ học nét xưa, cố nhà văn Sơn Nam lại đưa ra khẳng định, tượng Bà là pho tượng phật đàn ông của người Khơ Me bị bỏ quên lâu đời trên đỉnh núi Sam. Sau này, người Việt đưa tượng vào miếu điểm tô lại với nước sơn mới trở thành tượng phật đàn bà mặc áo lụa, đeo dây chuyền.


Nguồn gốc tượng bà Chúa Xứ với nhiều giả thuyết kỳ bí

Ông Trần văn Dũng tác giả của công trình khoa học “Khai phá vùng đất Châu Đốc” cũng khẳng định, tượng bà Chúa Xứ thật ra là tượng nam ngồi ở tư thế vương giả, phần đầu của tượng hiện thờ tại miếu không phải là nguyên gốc được chế tác sau làm bằng chất liệu khác với phần thân tượng.

2. Ly kỳ việc di chuyển tượng Bà xuống núi

Miếu Bà Chúa Xứ hiện tọa lạc dưới chân núi Sam thuộc phường núi Sam, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang nhưng tượng bà Chúa Xứ trước đây nằm trên đỉnh núi. Sau này, người dân mới cung thỉnh bà xuống chân núi tiện việc nhang khói, chăm sóc tượng bà. Việc di chuyển tượng bà xuống núi cũng có những câu chuyện ly kỳ không thể lý giải được.

Trước đây, khi chưa được xây miếu thì người Việt mình lên núi vô tình nhìn thấy pho tượng bỏ quên từ lâu. Người dân ta không biết đó là vị thần, vị thánh hay tín ngưỡng nào hết chỉ là theo phong tục có thờ có thiêng nên đã đặt lư hương để nhang khói tín ngưỡng tâm linh. Nhưng điều đặc biệt là bà chúa Xứ lúc đó rất linh hiển, khiến cho người dân đặc biệt tin tưởng, sùng bái bà.


Lễ rước tượng bà Chúa Xứ mô phỏng trong lễ hội Vía bà

Với mong muốn được thờ cúng Bà được thuận tiện và trang nghiêm hơn, các bậc cao niên trong làng thời đó đã hội họp bàn bạc đưa tượng Bà xuống núi dựng miếu thờ Bà. Chín thanh niên trai tráng, lực lưỡng được giao nhiệm vụ khiêng tượng bà xuống núi. Nhưng kỳ lạ là dù làm thế nào thì tượng bà cũng không hề nhúc nhíc. Đúng lúc đó, có một cô gái được Bà nhập xác báo mộng phải cử chín cô gái đồng trinh, tắm gội sạch sẽ lên làm lễ rước Bà xuống. Điều kỳ tích xảy ra sau khi làm theo thì chín cô gái đã khiêng tượng Bà xuống một cách nhẹ nhàng.

Khi rước tượng Bà đến chỗ lập miếu thờ bà bây giờ, bỗng nhiên tượng Bà nặng trĩu không thể đi tiếp được nữa. Các bậc trưởng lão mới khẳng định rằng, bà đã chọn nơi này nên đã đặt tượng bà xuống tựa lưng vào vách núi, nhìn ra ngoài cánh đồng, nơi dân làng sinh sống để lập miếu.

2. Ly kỳ việc di chuyển tượng Bà xuống núi

Miếu Bà Chúa Xứ hiện tọa lạc dưới chân núi Sam thuộc phường núi Sam, TP Châu Đốc, tỉnh An Giang nhưng tượng bà Chúa Xứ trước đây nằm trên đỉnh núi. Sau này, người dân mới cung thỉnh bà xuống chân núi tiện việc nhang khói, chăm sóc tượng bà. Việc di chuyển tượng bà xuống núi cũng có những câu chuyện ly kỳ không thể lý giải được.

Trước đây, khi chưa được xây miếu thì người Việt mình lên núi vô tình nhìn thấy pho tượng bỏ quên từ lâu. Người dân ta không biết đó là vị thần, vị thánh hay tín ngưỡng nào hết chỉ là theo phong tục có thờ có thiêng nên đã đặt lư hương để nhang khói tín ngưỡng tâm linh. Nhưng điều đặc biệt là bà chúa Xứ lúc đó rất linh hiển, khiến cho người dân đặc biệt tin tưởng, sùng bái bà.


Lễ rước tượng bà Chúa Xứ mô phỏng trong lễ hội Vía bà

Với mong muốn được thờ cúng Bà được thuận tiện và trang nghiêm hơn, các bậc cao niên trong làng thời đó đã hội họp bàn bạc đưa tượng Bà xuống núi dựng miếu thờ Bà. Chín thanh niên trai tráng, lực lưỡng được giao nhiệm vụ khiêng tượng bà xuống núi. Nhưng kỳ lạ là dù làm thế nào thì tượng bà cũng không hề nhúc nhíc. Đúng lúc đó, có một cô gái được Bà nhập xác báo mộng phải cử chín cô gái đồng trinh, tắm gội sạch sẽ lên làm lễ rước Bà xuống. Điều kỳ tích xảy ra sau khi làm theo thì chín cô gái đã khiêng tượng Bà xuống một cách nhẹ nhàng.

Khi rước tượng Bà đến chỗ lập miếu thờ bà bây giờ, bỗng nhiên tượng Bà nặng trĩu không thể đi tiếp được nữa. Các bậc trưởng lão mới khẳng định rằng, bà đã chọn nơi này nên đã đặt tượng bà xuống tựa lưng vào vách núi, nhìn ra ngoài cánh đồng, nơi dân làng sinh sống để lập miếu.

3. Bà Chúa Xứ hiển linh bảo vệ dân làng, chống giặc ngoại xâm

Thời bấy giờ, người Việt sinh sống tại vùng đất này hay bị người Xiêm (Thái Lan) tràn sang cướp bóc, xâm chiếm. Khi đã phát hiện ra tượng Bà trên đỉnh núi và đặt lư hương cúng bái tâm linh, người dân thường chạy trốn lên núi vì đặt niềm tin vào bà chúa Xứ. Và quả thật, mỗi lần lên thắp hương cầu khấn xin bà bảo vệ thì đều được an toàn. Vì vậy, người dân ở đây ngày càng đặt niềm tin mãnh liệt vào bà chúa Xứ.


Tượng bà Chúa Xứ trong miếu trang nghiêm ngày nay

Có một giai thoại kể lại rằng, có khoảng mấy chục tên giặc Xiêm rượt đuổi người dân theo lên núi thấy pho tượng của bà to, đẹp, bọn chúng muốn mang tượng bà về nước. Khi họ dùng dây thừng và cây đòn xỏ qua pho tượng để khiêng về, dù là mấy chục binh lính tráng sĩ khiêng nhưng chỉ đi được vài bước thì pho tượng nặng trịch, không thể đi được nữa. Tên tướng cầm đầu tức giận quá lấy binh khí ra đập bể một cánh tay của bà. Và lập tức, bà trừng phạt tên này chết ngay tại chỗ, những tên còn lại hoảng loạn bỏ chạy. Từ đó quân Xiêm kính sợ, không dám sách nhiễu dân làng ở vùng đó nữa. Dân làng cũng từ đấy tôn kính gọi Bà là Bà Chúa Xứ. Bởi vậy mà ngày nay, chính điện của miếu Bà chúng ta sẽ thấy câu đối:

“Cầu tất ứng, thí tất linh, mộng trung chỉ thị

Xiêm khả kinh, Thanh khả mộ, ý ngoại nan lượng”

Có nghĩa là: Cầu bà tất được, ban thì tất linh, báo điềm trong mộng

Người Xiêm khiếp sợ, người Thanh kính nể, không thể tưởng tượng được.


4. Ly kỳ những câu chuyện linh ứng của bà Chúa xứ

Đầu thế kỷ 19, ông Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) tên thật là Nguyễn Văn Thoại, người Quảng Nam thừa lệnh vua Gia Long đã vào trấn thủ vùng Tây Nam Bộ. Ông đã tham mưu và được triều đình giao cho việc đào kênh Vĩnh Tế. Con kênh này dài 100km, rộng 50m nối Châu Đốc với Hà Tiên. Đây là công trình vĩ đại nhằm thoát lũ, xả phèn cho đồng bằng sông Cửu Long và rút ngắn con đường giao thương, đường thủy phía Tây vùng đồng bằng.

Mặc dù 8 vạn nhân công được huy động, song khi bắt đầu vào cuộc thì liên tiếp gặp trục trặc, nhiều người chết vì tai nạn, bệnh tật, thú dữ tấn công. Trước khó khăn đó, bà Châu Thị Tế vợ ông Thoại đã nghe lời dân làng lên núi Sam khấn vái pho tượng thiêng. Quả nhiên sau khi hành lễ, việc xây dựng công trình diễn ra suôn sẻ, làm đâu được đó. Từ đó, ông đặt niềm tin tuyệt đối vào bà chúa Xứ, quyết định trùng tu, xây dựng miếu bà chúa Xứ trang nghiêm và nguy nga, để nhân dân thờ cúng bà được chu đáo và thành tâm hơn.


Bệ đá Sa Thạch trên đỉnh Núi Sam – nơi ngự của tượng bà ngày xưa

Ngoài ra, còn rất nhiều câu chuyện kể về sự linh thiêng của bà Chúa Xứ trong việc ban phước lành cho nhân dân, trừng trị kẻ ác cũng được người dân Châu Đốc truyền tai nhau từ đời này qua đời khác. Các câu chuyện linh ứng không chỉ là truyền thuyết mà ngày nay, người dân đi chùa bà Chúa Xứ kêu cầu cũng được bà giúp đỡ. Điều đó đã chứng minh cho sức mạnh tâm linh của người dân nơi đây và du khách thập phương khi đến với chùa bà Chúa Xứ.

Các câu chuyện xoay quanh pho tượng bà Chúa Xứ nổi tiếng khắp cả nước, thu hút cả triệu người đến chiêm bái mỗi năm. Quả thực, còn nhiều bí ẩn, ly kỳ sự tích về bà Chúa Xứ. Dù pho tượng là đàn ông hay đàn bà và nguồn gốc đến từ đâu đi chăng nữa thì trong tâm thức người dân miền tây Nam Bộ, bà Chúa xứ là điểm tựa tâm linh cho rất nhiều người. Những giai thoại về bà Chúa Xứ vẫn tiếp tục lưu truyền cho thế hệ mai sau về một nét đẹp văn hóa của dân tộc.


Thứ Bảy, 12 tháng 8, 2017

TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU Ở NAM BỘ

 

DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CẦN ĐƯỢC PHÁT HUY


Trong suốt chiều dài lịch sử dựng và giữ nước của dân tộc ta, nền văn hóa Việt Nam đã trỗi dậy mạnh mẽ, phát huy cao độ giá trị tinh thần và sức sống mãnh liệt. Trong đó, tín ngưỡng thờ Mẫu đã trở thành mạch nguồn không thể thiếu trong tổng thể nền văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung và văn hóa ở Nam bộ nói riêng.

Theo tín ngưỡng thờ Mẫu, Mẫu vừa là người mẹ có công lao vô cùng to lớn đối với sự hoài thai một hình hài, nhân cách con người; vừa là khát vọng, mong muốn về cuộc sống ấm no hạnh phúc, mùa màng tươi tốt, thoát khỏi thiên tai... Tín ngưỡng thờ Mẫu không ngoài mục đích là bày tỏ lòng biết ơn đối với thần linh mà còn cầu mong các vị thần chở che, bảo vệ con người.

Nam bộ là vùng đất mới nên trong quá trình khai hoang mở đất cũng là quá trình cư dân mang theo hành trang tinh thần của mình từ nhiều vùng, miền khác nhau khi đến sinh sống tại Nam Bộ. Tín ngưỡng ở Nam Bộ vì vậy càng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Mặt khác, tín ngưỡng ở Nam Bộ còn là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa giữa các cộng đồng cư dân. Vì vậy, có thể thấy các thành tố có trong tín ngưỡng từng tộc người cư trú ở Nam Bộ như: Kinh, Hoa, Chăm, Khmer đều có một ảnh hưởng nhất định trong việc định hình thể loại, diện mạo của các tín ngưỡng thờ Nữ thần cũng như thờ Mẫu ở Nam bộ.

    Có hai dạng nữ thần, đó là nhiên thần và nhân thần. Các nữ thần mang tính siêu nhiên, thể hiện các yếu tố trong tính thiên nhiên như: thần mặt trăng, thần mặt trời, thần Đậu, thần Dâu, Năm bà Ngũ Hành (Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ)... Bên cạnh các nhiên thần, thì nhân thần vốn là những con người thật như các vị tướng khởi nghĩa ( Hai Bà Trưng), những người phụ nữ có công giúp dân dựng làng, lập ấp, lập chợ hay truyền thụ kiến thức, dạy nghề...

    Ở Nam bộ, tín ngưỡng thờ Mẫu có ít nhiều thay đổi so với tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Bắc. Tục thờ Mẫu Liễu ở miền Bắc khi vào đến miền Nam dần biến đổi thành tục thờ các vị nữ thần gắn bó với cuộc sống đời thường của người dân miền Nam như: bà Đen, bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành... Nếu như ở Bắc Bộ, tục thờ Nữ thần và Mẫu thần có sự phân biệt nhất định thì ở Nam Bộ ít có sự phân biệt hơn. Có thể thấy, thờ mẫu ở Nam bộ, không mang tính khuôn mẫu như ở Bắc Bộ, mang tính thông thoáng cởi mở, đã tích hợp nhiều loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu khác nhau. Từ nữ thần một số bà đã nâng lên, phổ biến với tên gọi Thánh Mẫu, có liên quan đến các yếu tố đất, nước, trời.

    Người Kinh chúng ta lấy việc thờ cúng tổ tiên làm trọng và thờ cúng tổ tiên ba đời. Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Kinh còn thờ bà Đen, bà Chúa Xứ, bà Ngũ Hành, bà Chúa Ngọc, các vị Thánh Mẫu... Và do có sự giao lưu văn hóa cộng đồng nên các vị nữ thần hầu như được thờ phụng. Nếu như người Chăm thờ Bà Po Inư Nưgar thì sang đến người Kinh đã trở thành Thiên Y A Na Thánh Mẫu với nhân dạng thân thế và thần tích phù hợp trong tâm thức người dân Việt.
Khi người Kinh vào khai phá vùng đất Nam bộ, tín ngưỡng thờ mẫu có nguồn cội từ quê cha đất tổ được các lưu dân mang vào Nam bộ vẫn tiếp tục một dòng chảy sâu rộng. Hầu khắp các tỉnh Nam bộ, nơi nào cũng có điện thờ Mẫu hoặc gian thờ Mẫu. Rất nhiều nguồn tài liệu cho biết việc thờ Mẫu ở Nam bộ có mặt ở khắp mọi nơi. Nhưng nổi bật trong tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam bộ là hiện tượng tôn thờ bà Chúa Xứ. Đặc biệt, thờ bà Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc là trung tâm của tín ngưỡng này. Hằng năm, nơi đây thu hút khách từ khắp mọi nơi đến đây cúng Bà, xin Bà ban lộc, cầu cho được nhiều may mắn, bình an. Truyền thuyết về Bà được kể như sau: “...
    Ngày nọ, một số người vào núi đốn củi, tình cờ phát hiện một pho tượng phụ nữ ở giữa rừng bèn về báo với dân làng. Sau đó, bà con cùng nhau đưa tượng Bà về và lập miễu thờ.Truyền thuyết khác kể thêm rằng có một vị thần linh tự xưng là bà Chúa Xứ Châu Đốc, báo mộng cho dân làng: hãy chọn chín cô gái đồng trinh lên đỉnh núi Sam đưa tượng ta về lập miếu thờ, ta sẽ phù hộ cho dân an lành và làm ăn phát đạt. Sau đó, chín cô gái được chọn cử lên đỉnh núi để tìm tượng và quả nhiên họ tìm thấy một bức tượng tạc hình một người đàn bà trong tư thế ngồi, khuôn mặt phúc hậu, mắt nhìn thẳng về phía trước, đưa về rửa sạch sẽ và lập miếu thờ. Từ đó, hằng năm dân làng lấy ngày tượng bà được “an vị” tại miễu làm ngày lễ Vía Bà.

    Truyền thuyết gắn ngày lễ Vía Bà với tập quán sản xuất nông nghiệp ở địa phương, cho rằng tháng Tư là thời vụ bà con chuẩn bị xuống giống làm mùa. Họ làm lễ cúng tạ ơn Bà, hy vọng được Bà phù hộ, mùa màng sẽ bội thu. Chuyện kể rằng dưới triều Minh Mạng, khi Thoại Ngọc Hầu đảm nhận trọng trách trấn giữ biên cương phía Tây, giặc ngoại xâm thường sang quấy nhiễu. Mỗi lần nghe tin giặc kéo vào quấy phá, vợ Thoại Ngọc Hầu thường đến miếu bà Chúa Xứ khấn vái, mong chồng mình được bà phù hộ đánh thắng giặc, bảo vệ cuộc sống yên lành cho dân. Và những lời khấn cầu được ứng nghiệm. Để tạ ơn, vợ Thoại Ngọc Hầu đã cho xây cất lại miếu to lớn và khang trang hơn. Lễ khánh thành được tổ chức trong ba ngày 24, 25, 26 tháng 4 âm lịch. Từ đó về sau thành lệ, dân chúng cúng Vía Bà vào những ngày nói trên.”

    Nơi thờ mẫu khác khá nổi tiếng ở Nam bộ là nơi thờ Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen, tỉnh Tây Ninh. Truyền thuyết về Linh Sơn Thánh Mẫu cũng có nhiều dị bản khác nhau, phổ biến là truyền thuyết sau đây:
“Bà tên Lý Thị Thiên Hương, còn có tên khác là cô Đen, võ nghệ cao cường, nhan sắc mặn mà. Thiên Hương là người mộ đạo, mỗi dịp Nguyên Tiêu, nàng thường vượt đường xa lên núi lễ Phật. Một ngày kia, trên đường lên núi viếng chùa, nàng bị bọn cướp chặn đường uy hiếp. Thiên Hương chống trả rất quyết liệt, nhưng vì thân gái thế cô, nàng đành lao mình xuống vực quyên sinh, quyết không chịu hoen ố thanh danh trong tay bọn chúng. Sau khi chết, Thiên Hương thường hiển linh, luôn ban phước lành cho chúng sinh, thiện tín mười phương, nên dân gian mới kính trọng gọi Thiên Hương là Bà, và để cho gần gũi người ta gọi là Bà Đen. Người ta lập đền thờ Bà trên núi, núi này cũng được gọi là núi Bà Đen”. Lễ hội Vía Bà chia làm 2 thời điểm: mùa xuân vào tháng Giêng và mùa hạ vào tháng 5. Lễ hội mùa xuân diễn ra vào ngày 18 và 19 tháng Giêng hàng năm. Nhưng trong suốt tháng Giêng và sang cả tháng 2, núi Bà Đen vẫn đón tiếp hàng triệu lượt khách đến hành hương cầu mong bình an cho gia đình. Và vào tháng 5 với nhiều quy cách tiến hành lễ cầu kỳ, bên cạnh đó là phần Hội được nhiều du khách thập phương tham gia hưởng ứng.

Đối với người Chăm, vai trò của Nữ thần Po Inư Nưgar đặc biệt quan trọng, Bà dạy người Chăm biết cách trồng lúa, dệt vải, là vị thần đầy quyền năng sáng tạo. Bà đã nâng đỡ người Chăm đi những bước đầu trong tiến trình lập quốc của mình. Hình ảnh Po Inư Nưgar là Bà mẹ nhiệm màu đã xóa đi mọi ngăn cách tôn giáo. Vậy nên dù là tín đồ của bất kỳ tôn giáo nào thì Bà cũng có một vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của họ. Bà được tôn thờ một cách độc lập và trở thành một biểu tượng thiêng liêng. Chính vì thế mà trong hầu hết các nghi lễ, nữ thần Po Inư Nưgar luôn được người Chăm cầu xin ban phước và bảo vệ. Trong suốt mười mấy thế kỷ cho đến nay, người Chăm vẫn luôn tôn thờ một Bà mẹ xứ sở của từng thôn làng họ. Đặc biệt vào tháng 3 âm lịch hằng năm, từ Bắc tới Nam đều tiến hành “giỗ Mẹ”. Ở người Việt là lễ vía Thánh Mẫu Thiên Y A Na, còn người Chăm là lễ vía Thần nữ Po Inư Nưgar. Vào dịp này khách thập phương có thể chiêm ngưỡng sắc màu lễ hội, tạo nên không khí náo nhiệt trên khắp cả nước.

Còn đối với cộng đồng người Hoa, tín ngưỡng thờ Thiên Hậu là một trong những hạt nhân phản ánh bản sắc văn hóa Hoa tộc trong đại gia đình văn hóa Nam Bộ. Nhắc đến người Hoa, người ta nhắc đến Bà Thiên Hậu, ngược lại khi nhắc đến Bà Thiên Hậu người ta nói đến người Hoa.

Tương truyền, từ khi sinh ra đến lúc đầy tháng người ta chẳng hề nghe thấy tiếng Bà khóc, vì vậy bà có tên là “Mặc nương”. Lúc lên bốn, năm tuổi, Bà rất thông minh đỉnh ngộ. Lớn lên, Bà quyết chí không lập gia đình, ở vậy và làm việc thiện giúp người, cứu đời. Năm 16 tuổi, Thiên Hậu nhặt được Thiên thư từ một giếng cạn và sau đó biết được mọi thần thông biến hóa và Thiên Hậu trở thành người cứu nhân độ thế, giúp nhiều người tai qua nạn khỏi. Sau khi mất, hồn bà vẫn linh hiển. Đặc biệt, sự hiển linh của bà Thiên Hậu đã cứu giúp nhiều ghe thuyền gặp nạn trên biển. Những người đi biển và dân cư vùng ven biển đều thỉnh hình Bà để thờ cúng, cầu xin Bà phù hộ được bình an, làm ăn thuận lợi trên hải trình. Người Hoa xem Bà Thiên Hậu là đấng linh thiêng, phù hộ độ trì, cứu giúp họ thoát khỏi khó khăn, vươn lên trong cuộc sống. Hằng năm lễ hội vía Bà Thiên Hậu vào ngày sinh Bà (23 tháng 3 âm lịch), được tổ chức chu đáo: Tế heo sống nguyên con làm sạch lông và tổ chức hát quảng... Vào dịp này không chỉ người Hoa, mà người Kinh ở nhiều vùng lân cận cũng đổ về chùa Bà Thiên Hậu cúng bái để cầu tài lộc. Lễ hội vía Bà Thiên Hậu mang đậm màu sắc dân tộc. Qua lễ hội này, thể hiện tình đoàn kết, tương thân, tương ái: Kinh - Hoa trong khối đoàn kết đại gia đình dân tộc Việt Nam.

Về phương diện nghi lễ, ở Nam Bộ, nếu nơi nào có tục thờ Nữ thần và Mẫu thần thì thường có diễn xướng múa bóng, còn nơi có đền phủ thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì có diễn xuớng hầu bóng (lên đồng). Đó là nghi lễ nhập hồn nhiều lần của các thần linh vào thân xác các ông, bà đồng nhằm cầu sức khoẻ, tài lộc, một dạng thức của shaman giáo tồn tại ở nhiều nước trên thế giới. Để thực hiện nghi thức mang tính shaman này, các hiện tượng văn hóa nghệ thuật như hát văn và nhạc chầu văn, múa thiêng... đã được sản sinh và tích hợp tạo nên một thứ sân khấu tâm linh, tượng trưng cho sự tái sinh và hiện diện của thần linh Tam phủ, Tứ phủ thông qua thân xác các ông đồng, bà đồng. Bên cạnh đó, thường thì tín ngưỡng dân gian gắn liền với lễ hội. Chúng ta có thể nhận diện được những hình thức tín ngưỡng thông qua các lễ hội như: lễ hội Chùa Bà ở Bình Dương, Tây Ninh, lễ hội Bà Thu Bồn ở Duy Xuyên-Quảng Nam, lễ hội Kỳ Yên ở các đình làng ….

Ngày nay, tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Nam cần được quan tâm và phát huy theo đúng vai trò và đặc tính riêng của nó. Có một thực tế cần thừa nhận, một số người đang lợi dụng tín ngưỡng thờ Mẫu để trục lợi. Các “thầy đồng, thầy bói, thầy cúng…” nổi lên quá nhiều, đây chính là nguyên nhân làm cho tín ngưỡng thờ Mẫu biến tướng thành mê tín dị đoan. Một số người dân thiếu hiểu biết hoặc hiểu chưa đúng về tín ngưỡng thờ Mẫu và giá trị đích thực của nghi lễ “hầu bóng” nên bị lợi dụng. Đáng buồn hơn, một số người cho “hầu bóng” là một “mốt thời đại” nên đua nhau trình đồng, mở phủ rồi đi hầu bạt mạng, múa may quay cuồng, đua nhau sắm lễ thật to, vung tiền phát lộc thật lớn để khẳng định “đẳng cấp”. Và một thực trạng đáng buồn hơn, là vào các dịp lễ hội tại các ngôi chùa, đình, miếu thờ Mẫu người dân đua nhau đi lễ, chen chúc, xô đẩy gây ồn ào, mất trật tự... vô tình tạo ra hình ảnh xấu trong tín ngưỡng, tâm linh....Việc hầu Thánh đôi khi đã trở thành miễn cưỡng khi so sánh “hầu to, hầu nhỏ” làm mất đi những giá trị văn hóa tốt đẹp. Song song với việc xây dựng hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận tín ngưỡng thờ Mẫu Tứ phủ của người Việt là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại, Hội đồng Di sản quốc gia đã xây dựng đề án tổ chức và quản lý tín ngưỡng thờ Mẫu để trình Chính phủ phê duyệt. Và đề án ấy sẽ giải quyết rất nhiều vấn đề đang gặp khó trong việc bảo tồn, phát huy tín ngưỡng thờ Mẫu hiện nay. Nhìn chung, tín ngưỡng thờ Mẫu và “hầu bóng” đang bị nhiễu loạn, biến tướng. Đã đến lúc các nhà chức trách cần phải vào cuộc để ngăn ngừa những biểu hiện sai lệch trong tín ngưỡng thờ Mẫu, bảo vệ và giữ gìn thuần phong mỹ tục.

Tại Bảo tàng Phụ nữ Nam bộ đã dành riêng một phòng trưng bày chuyên đề về “ Tín ngưỡng thờ Bà” ( Tín ngưỡng thờ Mẫu) nhằm góp phần trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam nói chung và tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ nói riêng. Như vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ là một sự tiếp nối của tục thờ mẫu truyền thống. Qua đó thể hiện ước mơ của con người mong muốn vạn vật được sinh sôi nảy nở nhằm đem lại cuộc sống no ấm cho con người. Đồng thời thể hiện đức tin của con người vào sự linh thiêng, phù hộ độ trì của các vị Thánh Mẫu để con người được bình yên trong cuộc sống. Tục thờ mẫu cũng thể hiện tâm lý uống nước nhớ nguồn của con người Việt Nam nói chung, Nam bộ nói riêng khi được sức khỏe, tài lộc và may mắn thì nhớ ơn những người đã phù hộ độ trì cho mình. Đây chính là giá trị nhân bản, giá trị đạo đức và giá trị truyền thống Việt Nam.

TP.HCM, ngày 27 tháng 5 năm 2014

NGUYỄN THỊ KIM VOANH

Viên chức Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ

Thứ Năm, 2 tháng 3, 2017

Đền Ông Hoàng Bảy

  Đền Ông Hoàng Bảy ở đâu?

Đền Ông Hoàng Bảy là một khu di tích thuộc về lịch sử văn hóa thuộc địa bàn xã Bảo Hà - huyện Bảo Yên - Lào Cai, cách thành phố Lào Cai tầm 60km về hướng nam. Đền được dựng ở chân con đồi Cấm, bên cạnh là nơi sông Hồng vào Việt Nam và chỉ cách ga xe lửa Bảo Hà chỉ 800m. Đền dựng lên để thờ thần vệ quốc Hoàng Bảy - người anh hùng chỉ huy đội quân đánh đuổi giặc phương Bắc, giữ yên quê hương, nước nhà.

Đền Bảo Hà - Nơi thờ Ông Hoàng Bảy “thần hộ quốc”

ĐỀN BẢO HÀ - DẤU ẤN LỊCH SỬ VỀ THÂN VỆ QUỐC HOÀNG BẢY, ĐIỂM DU LỊCH TÂM LINH HẤP DẪN MỌI DU KHÁCH…

Khu di tích lịch sử văn hóa quốc gia Đền Bảo Hà tọa lạc dưới chân đồi Cấm, bên tả ngạn sông Hồng thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Đền thờ Thần Vệ Quốc Hoàng Bảy - là danh tướng thứ bẩy họ Nguyễn đã có công lớn trong việc chiêu mộ và chỉ huy quân sỹ cùng nhân dân chống giặc ngoại xâm bảo vệ miền biên cương của Tổ quốc. Với những công lao trong lịch sử trấn ải vùng Tây Bắc, Ông đã trở thành nhân vật huyền thoại được lớp lớp thế hệ con cháu ngưỡng vọng và thờ phụng.

Theo tài liệu chính thống: Vào cuối thời Lê, niên hiệu Cảnh hưng (1740-1786) khắp vùng Quy Hóa nhất là Châu Thủy Vĩ, Châu Văn Bàn luôn bị giặc cướp vùng Vân Nam tràn sang quấy nhiễu, khắp vùng loạn lạc, dân cư điêu tàn, ruộng đồng bỏ hoang, đồng bào các dân tộc vô cùng cực khổ lầm than. Tướng giặc ở Vân là Châu Tỉn Toòng nhân cơ hội cho quân đánh phá Châu Thủy Vĩ chiếm Trấn Văn Bàn.

Trước tình hình giặc quấy đảo, xâm chiếm biên cương, triều đình dù quan liêu rệu rã cũng không thể ngồi yên, nhà Lê đã cử viên tướng thứ 7 họ Nguyễn lên trấn thủ vùng Quy Hóa. Đội quân của danh tướng họ Nguyễn tiến dọc theo sông Hồng đánh đuổi giặc cỏ giải phóng được Khảu Bàn (là xã Bảo Hà ngày nay) và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Tại đây ông cho tập hợp các thổ ty, tù trưởng và chiêu mộ binh lính là người dân tộc địa phương, ngày đêm luyện tập binh sĩ chờ thời cơ tiến đánh Lào Cai. Sau đó khi quân sỹ và hậu cứ vững chắc ông thống lĩnh quân thủy và quân bộ tiến đánh và giải phóng Lào Cai cùng các châu thuộc vùng Quy Hóa, nhân dân vô cùng phấn khởi.

Sau khi đánh đuổi bọn giặc cỏ hung hăng, ông Hoàng Bảy huy động dân binh, chiêu dụ các Thủ hào địa phương tổ chức đón người Dao, người Thổ và đặc biệt là người Nùng áo xanh về lập làng, khẩn điền, củng cố lại tuyến phòng thủ và xây dựng kiên cố thêm các thành trì.

Với âm mưu chiếm Lào Cai, giặc phương Bắc thường xuyên đưa quân tiến đánh các khu vực biên giới, nhưng dưới tài thao lược và lòng dạ bao dung của ông cùng nhân dân các dân tộc trong vùng đã kiên cường bảo vệ vững chắc miền biên ải. Sau đó quân giặc cướp phương Bắc do tướng giặc là Tả Tủ Vàng Pẹt lại đưa quân sang xâm lược bờ cõi nước ta, ông Hoàng Bảy lại một lần nữa dẫn quân lên tham chiến, nhưng trong trận chiến không cân sức, ông đã anh dũng hi sinh. Xác ông trôi về đến Bảo Hà thì dạt vào bờ, trời quang mây tạnh.

Nhân dân địa phương đưa xác ông lên chôn cất trên sườn đồi Cấm với niềm thương xót, ngậm ngùi. Ông Lự Văn Cù người dân tộc Tày đã lập một miếu nhỏ để nhân dân quanh năm dâng hương tưởng nhớ đến công lao đánh giặc giữ nước của ông. Sau đó, triều Nguyễn đã phong cho ông danh hiệu “Trấn An hiển liệt” và ban sắc phong là “Thần Vệ quốc”. Nhân dân trong vùng đến thắp hương cầu phúc và đã góp công xây dựng một ngôi đền nhỏ gọi là đền Ông, lâu dần khách thập phương quen gọi là Đền Bảo Hà.

Đền Bảo Hà là nơi thờ chính của danh tướng Hoàng Bảy, người thủ lĩnh vùng sơn cước mưu lược, tài tình trong điều binh khiển tướng… Ông đi vào thế giới tâm linh như một huyền thoại và hình tượng “Thần Vệ quốc Hoàng Bảy” đã lan tỏa tới toàn thể cộng đồng nhân dân các dân tộc trên mọi miền đất nước. Từ một am miếu nhỏ dần dần trở thành một ngôi đền khang trang có phong cảnh “trên bến dưới thuyền”, uy nghi vững trãi tồn tại qua thời gian với biết bao thăng trầm lịch sử.

Đền Bảo Hà mang những giá trị to lớn về lịch sử và văn hóa. Năm 1997, Đền Bảo Hà được Bộ Văn Hóa, Thể thao & Du lịch cấp bằng công nhận Di tích lịch sử cấp quốc gia. Hàng năm, lễ hội Đền Bảo Hà (cũng chính là ngày giỗ/ kỵ nhật của Ông Hoàng Bảy) được long trọng tổ chức vào ngày 17/7 âm lịch, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng cũng như du khách thập phương đến dâng hương. Lễ hội được tổ chức đáp ứng nguyện vọng hoạt động tín ngưỡng tâm linh của nhân dân, đồng thời tưởng nhớ công lao to lớn của danh tướng Hoàng Bảy - người thủ lĩnh mưu lược tài ba.

Năm 1997, Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã cấp bằng và xếp hạng Đền Bảo Hà là Di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia.

Bàn thờ ông Hoàng Bảy

 

Đền Ông Hoàng Bảy ngày nay

Nhìn từ xa, ngôi đền vô cùng uy nghi, tĩnh mặc. Nằm giữa chốn thiên nhiên hữu tình trên là bến, dưới có thuyền, bao quanh bởi những tán cây rừng, đền nổi bật như một nét chính, nổi bật nhất. Đền tựa lưng vào núi, hướng mặt ra dòng sông Hồng như một vệ sĩ canh giữ, bảo vệ vùng đất nơi đây, như chính Ông Hoàng Bảy đã làm xưa kia. 

Hình ảnh đền ông Hoàng Bảy từ góc nhìn trên cao

Đường đi đến đền cũng vô cùng thuận lợi. Bạn có thể đến đây bằng đường bộ, đường sắt hoặc đường thủy đều được. Hiện nay ngôi đền ngày càng được quan tâm và đầu tư hơn để trở thành một địa điểm cho khách thập phương đến dâng hương.

Sự tích dân gian về Ông Hoàng Bảy và Đền Bảo Hà

Ông Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha. Theo lệnh vua, ông giáng phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, cuối thời Lê. Vào triều Lê Cảnh Hưng, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử ông, dọc theo sông Hồng, lên đánh đuổi quân giặc và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai.

Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp. Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông.

Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội.

Sau này khi hiển linh ông được giao quyền cho trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn rất ăn chơi, phong lưu: khi thanh nhàn ông ngả bàn đèn, uống trà mạn Long Tỉnh, ngồi chơi tổ tôm, tam cúc, xóc đĩa… lúc nào cũng có thập nhị tiên nàng hầu cận, ông cũng luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Ông Hoàng Bảy Bảo Hà”.

- Ông Bảy là Ông Hoàng hay ngự về đồng nhất, cũng bởi vì trong hàng Tứ Phủ Ông Hoàng, ông rất hay chấm lính bắt đồng (có quan niệm cho rằng, những người nào mà sát căn Ông Bảy thì thường thích uống trà tàu, hay đánh tổ tôm, xóc đĩa…). Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng. Đến giá Ông Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi thuốc lá có tẩm thuốc phiện.

- Đền thờ Ông Hoàng Bảy được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại là Đền Bảo Hà, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai (Vì thú chơi phong lưu của ông nên nơi ông ngự còn được mệnh danh là Trái Hút Bảo Hà). Ngày tiệc chính của ông là ngày 17/7 âm lịch, vào ngày này, ở đền ông tập nập du khách thập phương đến dâng ông ngựa xám, bàn đèn, thuốc cống, kẹo xìu (kẹo lạc)… để cầu tài cầu lộc.

 

4. Kinh nghiệm đi đền Bảo Hà

Nên đi Đền Ông Bảy Bảo Hà khi nào?

Hội chính của đền được tổ chức đúng vào ngày 17 tháng 7 theo âm lịch hàng năm, cũng chính là ngày giỗ của tướng Hoàng Bảy. Lễ hội có các phần như lễ rước kiệu, lễ tế thần, dâng hương và nhiều hoạt động văn hóa - thể thao thú vị khác. Không chỉ những ngày lễ mà ngay cả ngày thường nơi đây vẫn đón tiếp hàng trăm lượt khách viếng thăm để thắp hương tưởng niệm hay để cầu bình, cầu an, cầu tài lộc.

Những du khách đến cầu may tại đền ông Hoàng Bảy

Bên trong ngôn đền linh thiêng thờ Ông Hoàng Bảy

Đến đền Ông Bảy Bảo Hà – Sapa, Lào Cai bằng cách nào?

Nếu không tự đi được đến Bảo Hà, các bạn có thể đặt vé xe giường nằm hoặc tàu hỏa để di chuyển đến thành phố Lào Cai. Từ Lào Cai, các bạn bắt xe để đến với Bảo Hà. Nếu gia đình có điều kiện tự đi, các bạn từ Hà Nội đi theo cao tốc Nội Bài - Lào Cai, khi đến nút giao 279 thì rẽ theo biển chỉ dẫn khoảng 1km là đến với Bảo Hà. Nếu tính Hà Nội đi đền Bảo Hà bao nhiêu km thì quãng đường đi sẽ dài khoảng hơn 230km. 

Xe Duy LongXe Sao MaiXe Lương Kiên là những nhà xe uy tín xuất phát từ Hải Phòng, Hải Dương, Hà Nội, Phú Thọ đi Sa Pa, Lào Cai. Sẽ đi qua các điểm dưới đây.

Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2017

Đền Sinh - Ngôi đền kỳ lạ - Ngôi đền cầu con

Đền Sinh, hay còn gọi là đền Mẫu Sinh ở thôn An Mô (xã Lê Lợi, Chí Linh, Hải Dương) xưa nay được mệnh danh là nơi "ban con" rất linh thiêng cho những cặp vợ chồng không may vướng phải cảnh hiếm muộn. 

 

 

Cổng Đền Sinh

 

       Cách đó không xa, khoảng 1 km là đền Hóa tạo nên một quần thể di tích linh thiêng Đền Sinh, Đền Hóa đều thờ Thánh Phi Bồng. Đền Sinh là nơi ngài được sinh ra, đền Hóa là nơi ngài về trời.

     Đền Hóa, Đền Sinh là một phần của khu tâm linh Côn Sơn, Hải Dương.

Thần tích Thánh Phi Bồng

       Chuyện kể rằng ngày xưa có hai vợ chồng hiếm muộn là Chu Thức và Hoàng Thị Ba, đã bước sang tuổi ngũ, lục tuần mà vẫn chưa có mụn con để nối dõi tông đường. Một hôm hai người ngủ tại chùa thì mộng thấy một vị sứ giả đến ứng mộng nói rằng: Ta là Sơn Thần, phụng sắc chỉ Ngọc Hoàng giáng trần báo cho vợ chồng ngươi biết là sau này sẽ có sao xuống đầu thai vào nhà ngươi để giúp dân, cứu nước! Sáng hôm sau, họ ra đến cửa chùa thì bỗng thấy một vết chân người rất lớn. Ông Chu ướm thử không vừa, bà Ba ướm vào thì tự nhiên vết chân biến mất, về nhà một thời gian sau thì bà Ba có thai, sinh ra một cậu con trai khôi ngô tuấn tú, đặt tên là Hiện, tự Phúc Uy. 

 

Đền Trình trong Đền Sinh

 

       Phúc Uy 15, 16 tuổi đã văn võ song toàn. Năm 19 tuổi thì theo Lý Nam Đế đi dẹp giặc và được phong là Vũ Đại tướng quân và giao cho trấn giữ vùng Hải Dương, ông tử trận trong một trận chiến  và được người dân tôn kính lập đền thờ. Sau này, vua Lý Thái Tông đi qua Hải Dương, nhiều lần được thần Phi Bồng ứng báo, giúp đánh thắng giặc Chiêm nên đã ban sắc phong Yên Mô thành “Phấn Lôi” để tỏ lòng nghi nhớ công lao thần Phi Bồng.

Hậu cung kỳ lạ của đền Sinh - Thần tích về Thánh Mẫu Thạch Bàn

        Ngay trong gian hậu cung của đền Sinh có một phiến đá to được cho là mang hình của người phụ nữ đang lâm bồn, người dân cung kính gọi là Đức Thánh mẫu Thạch Bàn. Vì hình dạng phiến đá khá “tế nhị” nên những năm gần đây, nó được xây nhà bao quanh và che chắn cẩn thận, ít ai được trực tiếp mục sở thị. Nhưng hàng ngày, đặc biệt vào những ngày lễ, Tết vẫn có rất đông du khách kéo đến đây, và chủ yếu với mục đích “cầu con”, bởi ngôi đền từ lâu được cho là rất linh thiêng trong “ban con” cho những người hiếm muộn.

 

Lối vào Đền Sinh

 

 

        Theo những người trông coi ngôi đền, trước đây phiến đá lộ thiên và những người xin con thì luôn cố gắng sờ vào vào để mong muốn thần phù hộ, nhưng mới đây, do thấy hình thú phiến đá khá “tế nhị” nên Ban quản lý khu di tích đã cho xây một ngôi nhà ba gian bao quanh phiến đá, đồng thời phủ một tấm rèm mỏng để che chắn cẩn thận, vì vậy người thăm viếng ít có dịp chiêm ngưỡng Đức Thánh mẫu Thạch Bàn. Phiến đá cao chừng hơn 3m, rộng khoảng 5m, có hình dáng như người phụ nữ đang nằm ngửa trong lúc lâm bồn. Trên đầu phiến đá có hình tròn tượng trưng cho đầu. Hai khối đá tròn nhỏ phía dưới được xem như là bầu ngực.

 

 

Khung cảnh trong đền Sinh

 

 

      Tiếp xuống là hai khối đá lớn, dài, có hình dáng giống hai chân đang co gập gối. Giữa hai phần đùi có hai khối đá nhỏ tượng trưng cửa bát nhã (nơi sinh nở của phụ nữ) và một khối đá nhỏ khác được cho là hài nhi đang chui ra từ cửa bát nhã. Hai khối đá mé ngoài là bàn chân. 

 

Thần tích về Thánh Mẫu Thạch Bàn sinh ra Thánh Phi Bồng

     Ngày xưa, có đám trẻ con đang chơi dưới chân núi đền Sinh bây giờ bỗng nghe thấy có tiếng khóc bèn gọi nhau tới xem thì thấy một hài nhi dáng vẻ khôi ngô, thiên tư dĩnh ngộ ngồi ở chỗ hòn đá to bằng hai cái chiếu nứt đôi, tiếng khóc như chuông. Bọn trẻ thấy vậy lấy nón che đầu làm lọng rồi giữ tay nhau làm kiệu rước về làng. 

 

Đường lên miếu thờ Cô Bé Thạch Bàn trong Đền Sinh

 

 

      Đang đi bỗng nhiên mưa gió sấm chớp đùng đùng, cát bay, đá cuộn khắp nơi, hài nhi hét lên một tiếng rồi bay thẳng lên trời, chỉ nghe trên không trung có tiếng vọng lại “Ta là Phi Bồng Hạo Thiên Đại tướng quân giáng hạ”. Người địa phương lấy làm kinh hãi, bèn bảo nhau lập miếu thờ. Từ đó ở trang Yên Mô, trang Chi Ngãi cùng các trang lân cận làm ăn càng ngày càng phát đạt, già trẻ mạnh khoẻ vui tươi, nhiều người mơ thấy thần Phi Bồng hiện về an ủi dân chúng làm ăn. Vì thế người dân mới lập hai ngôi đền: Đền Sinh - nơi sinh ra thần Phi Bồng, cũng là nơi có phiến đá hình sản phụ đang sinh nở (gọi là Đức Thánh mẫu Thạch bàn) và đền Hóa – nơi Thần hóa về trời.

 

Sự linh thiêng trong cầu con ở Đền Sinh

        Cụ Phạm Văn Được là người có thâm niên viết sớ cầu con gần 20 năm tại cửa đền Sinh. Cụ Được cũng có thói quen ghi chép lại tên, tuổi, địa chỉ, thậm chí điện thoại liên hệ của những cặp vợ chồng mà cụ viết sớ cho. Thông thường, theo tục thì những cặp vợ chồng đến đây lễ xin con, nếu được thì sẽ phải quay lại làm lễ tạ và cụ cũng ghi chép lại thông tin về những người đến làm lễ tạ. Nhiều trường hợp khách ở xa, khi đậu thai chưa có điều kiện đến làm lễ còn gọi điện nhờ cụ làm lễ tạ giúp, khi nào có điều kiện sẽ tự đến tạ sau. Cũng nhờ việc ghi chép cẩn thận, cụ Được cho rằng đó chính là cơ sở để thống kê số ca “xin” được con. Cụ cho biết, bình quân mỗi năm có khoảng 70% số cặp vợ chồng đến xin con quay lại làm lễ tạ, có nhưng năm đột biến con số lên đến gần 100%. Như năm Quý Mùi (2003) có 365 trường hợp đến xin con thì có 325 trường hợp quay lại làm lễ tạ…

Miếu thờ Quan Sơn thần trong Đền Sinh

 

         Cụ Được cho biết mỗi người nhờ cụ viết sớ là một hoàn cảnh khác nhau, đa phần trong số họ là những cặp vợ chồng hiếm muộn, có những người có hoàn cảnh vô cùng éo le. Công việc viết sớ ở đền mang lại cho cụ thu nhập, nhưng đó cũng là niềm vui, cụ nói đùa rằng, nhờ viết sớ ở chân đền Sinh mà đến giờ cụ đã có người thân ở khắp mọi nơi. Có những cặp vợ chồng lấy nhau đã gần chục năm, suýt bỏ nhau vì chưa có con, thế mà đến đây lễ, ít lâu sau lại đến nhờ cụ viết sớ tạ. Có người xin một lần thì lần sau đã đến tạ, nhưng cũng có những người phải 4-5 lần mới được…


NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...