Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Đền Từ Mận

Toạ lạc bên bờ Bắc dòng sông Thương cách trung tâm thành phố Bắc Giang khoảng hơn 2km là một ngôi đền cổ kính, nhân dân vẫn gọi là đền Từ Mận, thuộc xã Xuân Hương, huyện Lạng Giang. Ngôi đền thờ Ngọc Khanh công chúa và chồng là Phạm Đức Hóa-con trai vị khai quốc công thần Phạm Văn Liêu, đã có nhiều công lao theo Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn gây dựng phong trào kháng chiến chống quân Minh ngay từ những ngày đầu. Hiện ở Xuân Hương còn lưu giữ được nhiều tư liệu thành văn nói về công trạng của Ngọc Khanh công chúa.

Trong gia phả chữ Hán, văn bản thứ 5 mục ghi dịch, nhà nghiên cứu văn hóa Trần Văn Lạng dịch: “Lê triều Thánh Tông thuần hoàng đế có con gái thứ tám là Thiều Dương Thiên Cực, Thái Trưởng công chúa Lê Thị Ngọc Khanh dự đánh giặc Liễu Thăng về đến đất Xuân Mãn (Xuân Hương) thì mất vào giờ tý ngày 22 tháng 2 được cấp ruộng thế nghiệp để trông nom giữ gìn tổ mộ, từ đường, lăng miếu. Trước đây con gái thứ tám của nhà vua thu binh đánh giặc Liễu Thăng vâng lệnh vua sai đến xứ Nghệ An và các trấn, lộ cùng các tùy tòng và các tướng uy danh lừng lẫy, binh giáp tinh nhuệ, tiến đánh giặc thù, chém tướng giặc vang danh hiển hách.... .giúp nước yên dân, ổn định xã tắc, được hưởng việc thờ phụng theo nghi thức nhà nước. Niên hiệu triều Lê Hiền Tông thứ nhất sắc tặng gia ban đệ bát công chúa Lê Thị Ngọc Khanh là Tối Linh Đại Vương”....Theo nguồn tư liệu chính sử của nhà nước phong kiến, những sắc chỉ, lệnh chỉ triều Lê hiện còn lưu giữ ở Xuân Hương đã chứng tỏ công chúa Thiều Dương (Lê Thị Ngọc Khanh) là nhân vật lịch sử có nhiều công lao với dân với nước, cuộc đời bà đã gắn bó sâu sắc ân sâu nghĩa nặng với nhân dân Xuân Hương. Bà được nhân dân tôn thờ, được nhà nước các triều đại Lê-Nguyễn ghi chép vào sự tích, ban sắc phong làm Thành Hoàng làng để nhân dân đời đời thờ phụng.

Đền từ mận


Đền Từ Mận là trung tâm sinh hoạt văn hoá tín ngưỡng, nơi tôn thờ người có công với dân với nước. Di tích là nơi tổ chức lễ hội truyền thống của nhân dân địa phương. Hội lệ hàng năm tổ chức ngày 19/4 âm lịch với nhiều nghi lễ và các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc thể hiện khát vọng tự do và tín ngưỡng nông nghiệp của nhân dân địa phương như: Đấu vật, đánh cờ, chọi gà, đánh đu, kéo co, hát quan họ, thi thả diều…Ngôi đền còn nằm trong quần thể di tích tôn thờ những nhân vật lịch sử thời Lê gắn liền với cuộc kháng chiến chống quân Minh trên đất Bắc Giang. Đó là đền thờ và khu mộ danh nhân văn hoá Phạm Văn Liêu-vị khai quốc công thần dưới triều Lê. Đình Cây Mai nơi thờ Phạm Đức Hoá là con trai Phạm Văn Liêu, phò mã dưới triều Lê, chồng của Ngọc Khanh công chúa. Đây là những di tích lịch sử văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng bảo vệ. Đền Từ Mận cùng những điểm di tích nói trên tạo nên một quần thể di tích cổ kính phản ánh về truyền thống lịch sử đấu tranh yêu nước của dân tộc trên quê hương Bắc Giang.Đền Từ Mận nằm soi bóng bên dòng sông Thương, nơi đây thuyền bè qua lại nhiều, đã một thời tấp nập cảnh trên bến dưới thuyền từ nhiều nơi qua lại. Quần thể di tích rộng đẹp, khuôn viên di tích cổ kính hơn bởi các cây cổ thụ xanh tươi tỏa bóng mát.Theo truyền lại ngôi đền xưa được xây dựng bề thế gồm nhiều hạng mục công trình với tổng thể 49 gian toạ lạc bên dòng sông Thương. Kháng chiến chống thực dân Pháp đền đã bị hư hỏng nhiều và theo thời gian đến nay các cấu kiện kiến trúc cổ cũng không còn bảo lưu được. Dấu tích của ngôi đền cổ còn thể hiện ở các tài liệu, hiện vật trong đền, như ngai thờ, bài vị, sắc phong, lệnh chỉ, sắc chỉ, kiệu thờ và nhiều đồ thờ tự khác từ thời Lê thế kỷ XVII-XVIII… Vết tích nền móng, các viên gạch, ngói cổ và các cây cổ thụ trong di tích cho biết dấu hiệu của một ngôi đền cổ. Đền Từ Mận hiện nayđã được tu sửa lại qua nhiều giai đoạn. Quần thể di tích gồm các hạng mục công trình cổng đền, khuôn viên sân vườn và khu nội tự đền chính. Bố cục tổng thể đền chính theo kiểu chữ đinh gồm toà tiền tế ba gian hai chái nối toà hậu cung hai gian. Phần liên kết vì mái toà tiền tế theo kiểu vì giá chiêng kẻ chuyền, xà cộc và vì mái kiểu cốn mê. Các cấu kiện kiến trúc không chạm khắc nhưng còn đượm màu thời gian cổ kính. Liên kết vì mái tòa hậu cung theo kiểu vì kèo trốn trụ, các cấu kiện không chạm khắc. Trong hậu cung bài trí hương án, trên đặt ngai thờ, bài vị và tượng Ngọc Khanh công chúa cùng các thị nữ hầu cận. Đôi câu đối treo ở đền nói rõ về ân đức của người được thờ:Con gái đế vương, tấm lòng trinh liệt, thành phúc thần là chuyện cũĐất ấy mây núi mưa sông, nhận chiếu vua ban, truyền lại đền thiêng.Trong đền còn bảo lưu được nhiều tài liệu, hiện vật có giá trị khẳng định bề dầy lịch sử và giá trị của di tích như bộ kiệu bát cống thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVIII, ngai thờ, bài vị, tượng thờ, bát hương cổ thế kỷ XIX, sắc phong năm Tự Đức thứ 33 (1880) và các tư liệu lịch sử, văn bản Hán Nôm có giá trị nghiên cứu khoa học.

Đồng Ngọc Dưỡng


https://langgiang.bacgiang.gov.vn/chi-tiet-tin-tuc/-/asset_publisher/vkMGMBzMVR85/content/le-hoi-en-tu-man

ĐỀN XƯƠNG GIANG

 Địa điểm chiến thắng Xương Giang được Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch công nhận di tích cấp Quốc gia năm 2009. Năm 2012 UBND tỉnh Bắc Giang đã đầu tư kinh phí xây dựng khu di tích Đền Xương Giang và đến nay dự án xây dựng cơ bản hoàn thành đón nhân dân và du khách thập phương đến chiêm bái, hành lễ. Theo các tư liệu lịch sử để lại, sau khi xâm lược nước ta, nhà Minh cho xây đắp thành lũy ở những nơi xung yếu để phòng thủ, trong đó có Thành Xương Giang. Thành được xây dựng từ năm 1407. Thành Xương Giang khi đó trở thành thành lũy kiên cố nhất của Giặc Minh án ngữ trên con đường dịch trạm từ Quảng Tây Trung Quốc nối với Đông Quan (Hà Nội ngày nay).


Cổng chính Khu di tích lịch sử chiến thắng Xương Giang. Ảnh: Hà Yến
Các dấu tích và sử sách ghi chép cho thấy Thành Xương Giang nằm trên 1 gò đồi thấp, được đắp bằng đất, có sông nhỏ và các thửa ruộng trũng bao quanh. Thành có hình chữ nhật, chiều dài theo hướng Đông Tây là 600m chiều rộng theo hướng Bắc Nam là 450m, tổng diện tích là 27ha; Bốn góc thành có 4 vọng lâu lớn, đặt các loại súng thần cơ lớn nhỏ. Cửa chính thành trông về phía Tây. Trong thành được phân chia thành các khu vực rõ ràng: dinh thự, doanh trại, kho lương, kho đạn…
Để xây Thành quân nhà Minh bắt hầu hết người dân từ 16 đến 60 tuổi ở khắp vùng Lạng Giang đều phải đến đây lao dịch, đào hào, khoét đồi lấy đất đắp thành. Biết bao dân phu đã phải chôn mình trong quá trình xây dựng Thành hiện lên chất ngất. Qua nhiều lần khai quật khảo cổ học có tìm thấy dấu tích của thóc gạo cháy thành than. Cùng với đó là những hòn đá kê bằng đá vôi, đá muối, gạch ngói gốm sành sứ có hoa văn từ thời Lý Trần. Hiện nay các hiện vật vẫn còn được lưu giữ và trưng bầy tại bảo tàng tỉnh Bắc Giang.
Trước đây Thành Xương Giang có 1 ngôi đền cổ nằm ở phía Tây Bắc trong thành, nhưng cho đến những năm 1970-1980 ngôi đền đã bị đổ nát. Sau này người dân địa phương có dựng lại 1 ngôi đền nhỏ khoảng 6m2 trên nền đất cũ. Nhưng hiện nay do ngôi đền nằm ở vị trí không đắc địa, phải đi qua đường sắt và diện tích ngôi đền nhỏ nên dấu tích không đáng kể.
Với mục đích tôn thờ, ca ngợi đức cao tổ hoàng đế Lê Lợi và vinh danh những vị hiền thần đã có công trong chiến thắng Chi Lăng – Xương Giang. Sau nhiều đợt khảo sát và qua nghiên cứu các di chỉ khảo cổ học địa điểm chiến thắng Thành Xương Giang, UBND tỉnh Bắc Giang phê duyệt quyết định xây dựng ngôi Đền Xương Giang tại địa điểm hiện nay. Theo đó, tổng diện tích khu di tích địa điểm chiến thắng Thành Xương Giang là 10 ha. Tất cả các hạng mục công trình tính từ ngoài vào trong theo trục dọc đăng đối, cân xứng, trong khuôn viên cây xanh thoáng mát, đẹp đẽ bao gồm: Cổng tam quan; Nghi môn, bình phong; Tả vu, hữu vu; Lầu chuông, lầu trống; Sân chính; Tòa tiền tế, tòa thiêu hương, Tòa chính cung
Ngôi đền tọa Đông Nam hướng Tây Bắc. Phía trước ngôi đền là cổng tam quan với 3 lối đi chính rồi đến nghi môn và bình phong. Nghi môn được xây dựng theo lối tứ trụ kình thiên, uy nghi trầm mặc giữa đất trời. Nghi môn được khắc câu đối với dòng chữ quốc ngữ, có lẽ đây chính là điểm đặc biệt của ngôi đền, Bởi lẽ ngôi đền thờ vị vua anh hùng áo vải nên khi thiết kế công trình, các nhà khoa học, sử học đã quyết định tất cả các câu đối trong đền đều được viết bằng chữ quốc ngữ để nhân dân có thể hiểu được. Và để phục vụ dân chúng dù người già trẻ, lành lặn hay khiếm khuyết cũng có thể tới thăm đền, 2 bên phải và trái có lối đi dành riêng cho người khuyết tật.
Phía bên trái sân là tả vu và lầu chuông, phía bên phải sân là hữu vu và lầu trống. Qua nghi môn là sân hội lớn lát đá vuông. Nơi ấy tụ nhiều nhân khí, thịnh vượng. Người xưa có câu tụ nhân như tụ thủy. Đền Xương Giang phía lưng gối đầu vào một gò đồi cao, xa xa là núi ông Trạng làng Kế. Như vậy có thể nói Đền Xương Giang có thế cục: đầu gối sơn, chân đạp thủy.
Hệ thống cây xanh trong đền được chú trọng, ngoài tác dụng tạo cảnh quan, bóng mát, giúp công trình hòa quện với thiên nhiên còn làm tĩnh tại tâm hồn người hành hương, truyền tải ý nghĩa về mặt tâm linh.
Tấm bảng tự Đền Xương Giang được giáp hoàn toàn bằng vàng. Khi màn đêm buông xuống 3 chữ vàng nổi lên trên nền đỏ rực rỡ cả một vùng.
Lầu chuông, lầu trống là sự thể hiện cho hào khí Xương Giang đời đời bất diệt. Tả vu, hữu vu là tượng trưng cho bá quan văn võ về chầu vào các dịp thiết triều. Ba tòa đền chính được thiết kế theo hình chữ Vương, tả vu, hữu vu theo lối chữ nhất. Lầu chuông, lầu trống theo lối ngoại vi, nội vi, công trình nghi môn theo lối bộ chấm hỏa và hai hồ nước hai bên tượng trưng cho chữ thủy. Vì vậy Đền Xương Giang hội đủ năm hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Tòa Tiền tế
Khu vực tòa Tiền Tế là nơi vào các dịp lễ, ngày tế, ngày hội, quan viên ban tế nhà đền là lễ tế các anh hùng nghĩa sĩ của Nghĩa quân Lam Sơn.
Gian giữa là hương án ban công đồng, nơi thắp hương các vị thổ công, thành hoàng, anh hùng nghĩa sĩ chung cho cả khu vực bản đền.
Tòa Tiền tế là công trình kiến trúc kết hợp giữa đá và gỗ hài hòa, ăn khớp với nhau. Hệ thống cột hiên được tạo tác bằng đá xanh, trạm khắc rồng mây uốn lượn mềm dẻo mà vẫn uy nghi.
Bên trong 2 phía 2 gian có 1 con ngựa trắng và trống, 1 con ngựa hồng và giá chiêng. Mỗi dịp tế thần trống và chiêng được dùng làm lễ tế thánh và các anh hùng Nghĩa sĩ Lam Sơn.
Đền Xương Giang còn lưu giữ những Di vật vô cùng quý giá được lấy về từ đền Lam Kinh - Kinh đô đầu tiên của nhà Lê sau khi thống nhất đất nước lập ra nhà nước Đại Việt, đó là 1 viên gạch từ thế kỷ 15 hiện được đặt trong tòa đền chính. Đất long mạch tại đền Lam Kinh được trải dưới nền đất thổ ngôi đền. Nước lấy từ giếng ngọc được đổ vào 2 giếng mắt rồng đền Xương Giang và chân hương từ đền Lam Kinh thờ vua Lê Lợi. Như lời chấp thuận của Đức Cao tổ Hoàng Đế Lê Lợi cho nhân dân tỉnh Bắc Giang được thờ phụng ngài.
Tòa Thiêu Hương
Tất cả kiến trúc tòa Thiêu Hương được làm bằng gỗ lim. Hệ thống xà ngang, xà dọc được chạm khắc hoa văn rồng mây, hoa lá theo phong cách thời Lê, thanh thoát, khỏe khắn.
Nơi đây có đặt 1 đỉnh đồng cỡ lớn mang ý nghĩa thần khí linh thông, tượng trưng cho sự uy nghiêm của nơi thờ tự. Vào ngày lễ, nhà đền đốt hương trầm để hương thơm lan tỏa tạo nên không gian linh thiêng, thuần khiết. Đỉnh đồng được đặt trên chiếu đá, chiếu đá được chạm hoa văn tinh xảo, phía dưới có lỗ thông âm dương hòa hợp.
Mặt trước của Đỉnh Đồng có khắc 3 di sản văn hóa của miền đất Bắc Giang: Cây dã hương nghìn năm tuổi ở huyện Lạng Giang, Chùa Vĩnh Nghiêm cổ tự và Mộc bản Kinh phật – di sản ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Cũng từ nơi này khách hành hương đi theo các hướng có thể tới thăm những địa danh có các di sản của miền đất Bắc Giang.
Mặt sau của Đỉnh Đồng khắc lên toàn cảnh Lễ hội Xương Giang ngày hội toàn thắng của quân và dân Đại Việt sau khi đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc. Lễ hội Xương Giang là một trong những điểm nhấn quan trọng của quần thể di tích chiến thắng thành Xương Giang.
Nơi tòa Thiêu Hương chính là ranh giới ấn định địa phận của người trần với địa phận thờ các anh linh anh hùng nghĩa sĩ. Người xưa có câu: “ linh hồn người thường tồn tại hàng ngàn năm, nhưng anh linh của các vị anh hùng có công với đất nước tồn tại hàng vạn năm”. Vì vậy cửa chính cung ngày thường không mở, tòa thiêu hương là chỗ dừng chân trước cung cấm. Nhưng trong dịp lễ hội đầu xuân, khách dâng hương có thể tự do chiêm bái Đền Xương Giang
Tòa Chính Cung
Tòa Chính cung có 3 gian thờ chính. Ban thờ Hoàng đế Lê Lợi đặt ở giữa gian. Tại ban thờ này là tượng Hoàng đế Lê Lợi đúc bằng đồng ở tư thế ngồi, tượng được đặt trên bệ đá. Tượng Hoàng đế Lê Lợi được đúc theo cơ sở mẫu tượng thờ vua Lê ở nhà Thái Miếu nhà Lê tại TP Thanh Hóa. Dáng tượng uy nghiêm lẫm liệt của 1 vị tướng mà vẫn nhân từ đức đạo của 1 đấng quân vương.
Tiếp theo là hai gian ban thờ chia hai bên tả, hữu gian giữa. Ban thờ thờ 17 vị tướng lĩnh tham gia trực tiếp vào trận đánh Xương Giang năm 1427 và 17 vị tướng không đúc tượng đồng mà lập bài vị để thờ.
Kế đó là ban thờ tiền quân và hậu quân Nghĩa quân Lam Sơn trong trận quyết chiến năm 1427. Ban thờ này có tính chất công đồng liệt vị, tưởng niệm tri ân các nghĩa sĩ Lam Sơn đã hy sinh vì đất nước.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, Chiến thắng Xương Giang được ghi danh với những chiến công oanh liệt. Nơi đây đã diễn ra trận công thành của Nghĩa quân Lam Sơn tiêu diệt hàng vạn quân Minh. Thực hiện chủ chương “vây thành diệt viện”, từ cuối năm 1426 Nghĩa quân Lam Sơn đã cho vây hãm thành, quyết tâm hạ thành trước khi viện binh của địch kéo sang. Nghĩa quân Lam Sơn đã cho đào hầm từ ngoài vào trong rồi tiến hành nội công ngoại kích. Sau hơn 9 tháng chiến đấu, thành Xương Giang đã bị hạ. Chiến thắng Xương Giang là điển hình của nghệ thuật quân sự “lấy ít thắng nhiều, lấy yếu đánh mạnh”. Là biểu tượng của sức mạnh tinh thần và ý chí quyết thắng của dân tộc Việt Nam. Chiến thắng Xương Giang là niềm tự hào của quân và dân cả nước, góp phần chấm dứt 20 năm đô hộ của nhà Minh đối với Đại Việt. Mở ra những trang mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước vinh quang của dân tộc ta. Cũng từ chiến thắng ấy Vua Lê Lợi lập nên 1 triều đại mới, triều đại hậu Lê, đổi tên đất nước Đại Việt.
Với mùa xuân năm này, đã qua 590 năm nhưng khí thế chiến thắng Xương Giang như còn mãi vang dậy. Người dân Xương Giang từ nay tự hào hơn khi truyền thống cha ông được bao lớp thế hệ mai sau tiếp nối. Tiếng trống sấm mừng năm mới, mừng chiến công thắng trận năm xưa đã điểm. Đó cũng là tiếng trống khai hội chiến thắng Xương Giang. Tiếng ca, tiếng hát người ơi người ở đừng về vang khắp đó đây chén rượu mừng xuân Đinh Dậu.
Lễ hội Xương Giang được tổ chức hằng năm vào các ngày 6, 7 tháng giêng với quy mô lớn, nhiều địa phương tham gia, hình thức khai hội cũng được thay đổi theo từng năm. Qua lễ hội Xương Giang, lịch sử truyền thống hào hùng của cha ông thuở trước sẽ được khơi dậy và phát huy tốt đẹp trong lớp lớp con cháu mai sau./. 

 Minh Trang

Đi Lễ Đền Cô Bé Chí Mìu – Bắc Giang

Đã từ lâu, Đền Cô Bé Chí Mìu thuộc bản Chí Mìu, xã Hương Sơn, huyện Lạng Giang (Bắc Giang) được đồn rất bởi sự linh thiêng. Sự linh thiêng được tương truyền rằng, cứ vào lúc 12 giờ đêm, cô Bé Chí Mìu sẽ giáng về đền chứng lễ và ban phúc, lộc, đặc biệt là đêm 30, rạng mùng 1.

Đền Cô Chí Mìu là một ngôi đền mang nhiều huyền bí và linh thiêng nên khách thập phương về đây lễ rất đông. Cô bé Chí Mìu chính là Cô Bé Thượng Ngàn, do đền Cô bé Thượng Ngàn nằm ở bản Chí Mìu nên mọi người đều gọi cô theo tên địa danh của đền là Cô Bé Chí Mìu.

Cô bé Thượng Ngàn rất ít là chủ đền, nhưng các đền mà cô là chủ đền đều rất linh thiêng. Nổi tiếng nhất là đền Cô bé Thượng Ngàn Lạng Sơn, Đền Cô bé Thượng Ngàn Chí Mìu.

Còn các ngôi đền khác các cô bé thường đươc thờ ở cung cô bé. Các cô bé này được coi là cô bé bản đền, luôn hầu cận Thánh Mẫu hoặc các Thánh Chầu tại bản đền các cô ngự.

Lịch sử đền:

Trước năm 1995, đền Cô chỉ là một cái miếu nhỏ có một bát hương và chưa được phối thờ thêm ngôi vị của một vị thánh nào. Năm 1995, có người mới dâng tượng cô vào miếu. (Hiện ngôi tượng này vẫn đang được thờ tại cung Cô Bé Thượng Ngàn của ngôi đền).

Cho đến 2010, ngôi miếu được gỡ bỏ để chuyển linh sang ngôi đền mới như bây giờ. Cung cô Chí Mìu hiện tại chính là vị trí của ngôi miếu cũ ngày xưa. Ngôi đền mới xây dựng đã được phối thờ các cung: Cung công đồng, Cung Sơn Trang, cung Trần Triều và cung Cấm thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.

Đường đi đến Đền: Nếu đi từ Hà Nội, chúng ta đi theo đường Quốc Lộ 1A (Tuyển đường Hà Nội – Lạng Sơn) qua thị trấn Kép khoảng 4 km đến ngã tư Cầu Đen. Qua ngã tư Cầu Đen rẽ bên phải đi thêm khoảng 2 km nữa là đến Đền Cô Chí Mìu. Đến Kép hỏi đền Cô thì ai cũng biết cả. Đường từ ngã tư Cầu Đen vào bản đền nay đã được địa phương xây dựng lại. Nên tuy nhỏ, những đã không còn gồ ghề và khó đi như trước. Xe đến bản đền có thể vào thẳng bãi gửi xe ngay gần sân đền. Từ Ngã tư Cầu Đen tới bản đền các bạn sẽ gặp Nhà máy Xi Măng Bắc Giang. Vì nơi đây sản xuất xi măng nên đường khá bụi. Các bạn đi xe máy nên đeo khẩu trang dày để tránh bụi bẩn nhé!

Bên ngoài đền: Ban Quản lý Nhà Đền Cô Chí Mìu không thu vé gửi xe ô tô, không thu tiền cung, tiền đền với các cung hầu. Đền cũng khá văn minh: Không cho các dịch vụ xóc thẻ, lấy thẻ có đất phát triển. Tại đây bạn sẽ bắt gặp các dịch vụ thường thấy giống ở cồng đền chùa khác như: Phục vụ đồ ăn: Khoai Nướng, Trứng nướng ….. Có dịch vụ viết sớ do nhà đền quản lý nhưng để gia chủ trả tiền viết sớ trên cơ sở tùy tâm.

Sân đền: 

Mặt trước đền Cô Bé Chí Mìu
Mặt trước đền Cô Bé Chí Mìu

Khoảng sân nhỏ mặt trước đền có cung thờ lầu cô, lầu cậu và ban Mẫu Cửu Trùng Thiên.

  • Ban Mẫu Cửu Trùng Thiên: Đối diện mặt trước đền.
  • Lầu Cậu: Ngự phía bên tay trái mặt trước đền.
  • Lầu Cô: Ngự phía bên tay phải mặt trước đền.

Bài trí bên trong Đền Cô Chí Mìu:

Cung Cô Bé Thượng Ngàn
Cung Cô Bé Thượng Ngàn

Cung ngoài: Là Cung Công Đồng nhưng chỉ phối thờ tượng Quan Hoàng Bơ, Quan Hoàng Bảy, Quan Hoàng Mười trong Tứ Phủ Quan Hoàng.

Cung giữa: là Cung Cô Bé Thượng Ngàn (tức Cô Bé Chí Mìu). Cung của cô có ngôi tượng nhỏ của Cô có từ năm 1995. Bên trái cung của Cô là cung Trần Triều, Còn bên phải cung của Cô là Cung Sơn Trang.

Cung Cấm: Thờ Tam Tòa Thánh Mẫu.

Hiện trong đền còn lưu những bức ảnh kể về những câu chuyện tâm linh thể hiện sự linh thiêng của cô như : Ngày động thổ ngôi đền vào tháng 5 năm 2010, có một con bướm rất to về ngự tại bàn thờ lễ động thổ hay những lần cô bé hiện hồn.

Hình ảnh được cho là cô bé hiện thân vào ngày sửa lễ động thổ tháng 5 năm 2010
Hình ảnh được cho là cô bé hiện thân vào ngày sửa lễ động thổ tháng 5 năm 2010
Hình ảnh được cho là Cô bé Thượng Ngàn hiện hồn
Hình ảnh được cho là Cô bé Thượng Ngàn hiện hồn

Để việc đi lễ, xin lộc cô được đắc lộc, đắc tài. Mời các bạn tham khảo bài văn khấn tứ phủ công đồng sau:

Khu vực hoá Vàng: Ở phía tay phải đền.

Lưu ý: 

Thông thường vào đêm 30 hàng tháng có đến hàng ngàn người đổ về đây ăn chực nằm chờ để chờ 12 giờ đêm cô về chứng lễ. Do ngày trước, đây là nơi dân đề đóm thường về hầu đêm vì phải hầu giấu do bị cấm để xin cô cho trúng đề, trúng lô. Có lẽ vì thế tạo nên một truyền thuyết cô về hiển linh vào 12h đêm là thế. Vi đông người chen lấn lẫn nhau nên nhà đền khuyên rằng vào các ngày đó khi vào đền không nên mang ví, điện thoại…để tránh bọn móc túi lợi dụng.

LINK: 

https://gianganh.net/co-be-chi-miu-bac-giang-2495.html

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Đế Minh, Đế Nghi, Kinh Dương Vương


Dịch lại Ngọc phả Hùng Vương, đoạn đầu tiên về ba vị Đế Minh thái tổ, Đế Nghi đế bá, Kinh Dương Vương hoàng phụ.

Xưa kia từ thời Hoàng Đế, cháu ba đời của Viêm Đế là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi tuần du phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh. Đế Minh gặp được con gái của Vụ Tiên nương, mà sinh ra Kinh Dương Vương, húy là Lộc Tục. Vua ở ngôi hai trăm năm mươi năm, thọ hai trăm năm mưới bảy năm. Hóa tiên về biển cùng với con gái Động Đình Quân là Ngọc Dung.
Vua có dung mạo đoan chính, thông minh thánh trí, vượt trội hơn tầm của Đế Nghi. Đế Minh thấy có trí tuệ kỳ lạ, có ý lập kế tự, muốn truyền ngôi báu cai quản muôn nước. Nhưng Dương Vương cố nhường cho anh. Thế là Đế Minh lập Đế Nghi nối ngôi, cai trị phương Bắc, còn phong cho Kinh Dương Vương cai trị thiên hạ ở mặt Nam, xưa là quận Giao Chỉ. Kinh Dương Vương đổi thành động Xích Quỷ, tên là nước Xích.
Xưa Dương Vương vào ngày mồng năm tháng hai năm Nhâm Tuất, vâng lệnh đem quân lính dời đến núi Nam Miên, trấn giữ và cai trị đất nước. Trên đường Vua ngắm xem phong thủy, chọn nơi hình thế thắng địa, có đại cuộc chân long quý mạch, để lập đô ấp, trấn trị thiên hạ. Qua đất Hoan Châu (xưa là Hoan Châu, nay là Nghệ An) Vua ngắm xem hình thế, thấy được một vùng có quý cuộc phong cảnh tươi đẹp, như lâu đài muôn nhẫn, gọi là Hùng Bảo Thứu Lĩnh, tất cả có 199 núi, xưa gọi là Cựu Đô Ngàn Hống. Vùng đất này non biển đúc linh, núi sông khe hồ hội chầu, tụ họp ở cửa Hội Thống ven giáp biển, đường núi quanh co, đường sông uốn khúc, địa thế rồng cuộn hổ ngồi, bốn hướng cùng trông, bèn xây dựng đô thành cung điện lâu đài cửa ngọc, làm nơi cho bốn phương triều cống.
Bấy giờ khí xuân ấm áp, vô vàn cảnh sắc. Vua bản tính thích phong thuỷ bèn lên thuyền ngự tuần du ngoài biển, đi xem núi sông, trải xem hình đất, lạc ra ngoài biển. Bất giác thấy thuyền rồng đã thẳng đến xứ hồ Động Đình, núi xanh nước biếc. Vua sai dừng thuyền, đứng lên xem, chợt thấy một người con gái lưng eo xinh đẹp, dung nhan tuyệt sắc, từ dưới đáy nước đi đến. Thật là một cuộc hội ngộ hiếm có xưa nay. Vua bèn sai chèo thuyền đến gần. Vua nói:
– Tiên nữ đẹp quá, từ đâu đến đây?
Thiếu nữ đáp:
– Thiếp tên là Thần Long, chính là con gái Động Đình Quân, ở trong thâm cung cửa ngọc, từ lâu đợi bậc anh hùng, nay trời cho được gặp gỡ, nguyện được theo phụng hầu khăn túi.
Vua vui mừng đẹp ý, bèn dắt vào trong thuyền rồng. Vua cùng người con gái quay giá trở về thành đô, lập Thần Long làm chính cung.
Ngày sau Vua lại đi tuần thú, rong ruổi xem khắp các nơi sông núi, đến xứ Sơn Tây thấy một nơi địa hình trùng điệp, sông đẹp núi lạ. Vua bèn thân ngự giá lên núi, tìm mạch đất, nhận thấy khí mạch từ núi Côn Lôn xuất ra, theo từ động núi Ngũ Lĩnh Vân Nam của cả nước, tiếp gặp Ải Môn Ngưỡng Đức nước lớn, như hình chữ Bát. Xuyên núi thấu mạch dẫn tới Cao Bình, Lạng Sơn, Càn Hải chín châu. Các núi cao vút, bỗng nổi lên thành ba ngọn núi [Tam Đảo], rồng trắng giáng khí ở châu Thái Nguyên, chợ trời bàn đá [Thiên Thị Thạch Bàn], nước chảy khe trên, ngược núi ngược sông, mạch dẫn liên miên.
Đưa tới các châu Bảo Lạc, Bằng Du, Thu Vật, Lục Yên, đầu nguồn nước từ Hoàng Hà, Hán Giang, Lô Giang, Càn Thủy, mà chảy dẫn mạch giáng khí, gặp nước ròng mạch nhỏ Ải Môn, rồng dẫn đi xa, tới núi Nam Miên là đất Tuyên Quang, thế rõ từ núi Tụ Long, liền tới châu Thu Vật, biến ra toà Kim tinh cao muôn nhẫn.
Mạch đất chảy ở giữa chia trái phải. Sông Hán, sông Hoàng, sông Bảo hai bên dẫn mạch. Chảy tới Lâm Thao, Đoan Hùng, Hạ Hoa, Thanh Ba, Sơn Vi, Tây Lan, Phù Khang, đến chùa Long Hoa, thôn Việt Trì ở ngã ba sông Bạch Hạc. Núi lạ sông đẹp, ngọc tụ nước ngưng, chân đá giáp nước, trái phải cùng đổ về, là chính đường của vạn nhánh, hội tụ chính khí. Bên ngoài chia các huyện Nam Giang, Bắc Giang, Thiên Lịch Giang, Tô Lịch, Tam Dương. Bỗng dựng lập núi Tam Đảo. Cung bên trái là rồng xanh, nghìn núi vạn sông chảy ra ở Lập Thạch, Bạch Nê, Châu Diên. Núi xanh nước biếc, đất sáng như mở ngọc bội, các núi giúp chuyển, tới xứ Kinh Bắc các núi Chu, Sóc, Trà, Từ, Mộc Hoàn, Tích An, An Lão phục chầu. Dẫn đến xứ Hải Dương các núi Đông Triều, Hoa Phong, Yên Tử, thoát ra biển tám xã Đồ Sơn, là đầu rồng chầu án.
Bên phải đất từ Ba Thục, Hán Giang, Hoàng Giang, Thao Giang, núi dẫn sông theo, tới mười sáu châu Tuyên Quang, Hưng Hóa, châu Đà Bắc, Thanh Nguyên, Bạn Hà, Đà Hà, đến huyện Bất Bạt thì nổi lên núi Tản Viên. Cung bên phải là hổ trắng. Núi chầu vạn nhánh, nổi lên ở Mỹ Lương, Minh Nghĩa, Phúc Lộc, Viễn Sơn Thạch Thất, An Sơn, Tây Sơn, Sài Sơn, Tử Trầm, Hữu Bật đến xứ Sơn Nam Chương Đức, Đại Yên, núi Hương Tích sơn, núi Thạch Na, Nam Công, núi Vũ Phượng, núi Đội Điệp, núi Nghi Dương, chầu vào mà thoát, đến cửa biển Thần Phù ỏ núi Chính Đại thuộc Ái Châu, thoát đến Chích Trợ sơn, cửa Vạn Lý, làm đầu hổ chầu án. Lấy sông Bạch Hạc làm Nội minh đường. Lấy Ngã Ba Lãnh, Đại Giang, huyện Nam Giang làm Trung minh đường. Mặt nước như ấn ngọc trông phù vàng. Tiền Hải, Cổ Yếm, Tượng Sơn làm Ngoại minh đường. Nghìn non cúi phục, vạn thuỷ chầu nguồn, đều hướng về núi tổ Nghĩa Lĩnh.
Nhìn thấy tất cả hình thế ấy, Vua nhận ra thế cục của đất Bắc quý đẹp hơn đô thành cũ Hoan Châu, bèn lập điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Vua thường ngự giá đến đất bên nơi ngoại này, lập dựng đô thành Phong Châu, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Rồi vua ngự giá về cựu đô ở Hoan Châu. Việc dựng đô thành của vua, trước bắt đầu ở núi Thứu Lĩnh, sau lại định đô ấp, vị trí của chính điện, thành trời ao vàng, ở núi Nghĩa Lĩnh, làm đô ấp của họ Việt Thường xưa tại đó.
Bấy giờ vua đi tuần thú trở về cung điện ở núi Nghĩa Lĩnh. Cung phi con gái đế quân là Thần Long cùng với Vua sống ở núi Kỷ Lĩnh, điềm rồng khí chính, thụy thánh có mang. Mang thai mười lăm tháng mười ngày. Đến kỳ mây rồng năm sắc giáng xuống chính điện. Vua sinh hạ Lạc Long quân, tên huý là Sùng Tục. Trước Long Quân có tỏ điềm rồng ứng tốt, ánh sáng đầy nhà, trong trướng tỏa hương thơm. Qua tuần sinh hạ Lạc Long Quân, tư chất phi thường, tự có khí tượng đế vương. Vua mới lập làm hoàng thái tử. Thái tử trưởng thành, tài năng hơn người, thông minh nhanh nhẹn, tài thần trí thánh, anh hùng hiểu biết. Năm tháng tăng thêm, Đế lệnh với triều đường trăm quan rằng: Ta thừa mệnh trời mà trị vạn dân, giữ yên cơ đồ, sắc lệnh cho Thái tử khâm sai cùng với trăm quan cử hành lễ đi tuần thú lãnh thổ, chính là để xem núi sông, những nơi biển non kỳ lạ. Vua khiến Thái tử điều trăm viên tướng mạnh, ba vạn binh tinh đi tuần thú nước nhà, xem xét bốn bể, địa thế núi sông.
Thái tử đi đến Nam Bang, thế đất theo núi sông dẫn mạch mà đến, lên núi tìm theo mạch rồng, tựu ở xứ Tuyên Quang, châu Thu Vật, Tụ Long, nhìn thấy mạch đất rồng chạy đến, Nghĩa Lĩnh đúc thiêng,  gặp qua thượng lưu sông Hoàng Hà, Nhị Hà, Đầu Giang, Hán Lô Giang, đầu nguồn một nhánh chảy ra, nuôi dưỡng che chở nước Nam, từ Tây rồng đến, từ châu Bảo Lạc núi Côn Lôn trên dưới hai bờ, cho đến cửa ải, nước lớn từ Ngũ Lĩnh, Thái tổ Côn Lôn của đất nước, đất tổ Linh Sơn Phong Thứu. Trăm vạn đầu núi dựa Đông Tây Nam Bắc, làm được như bầy con. Lấy Côn Lôn Ngũ Nhạc đại tổ quốc làm Thái tổ, cha mẹ, cùng vạn nước đầu núi góc biển, một mối quy đồng. Thái tử trí thánh thông minh, tài anh mưu lớn, là vị vua có chí trị, danh hiền Việt cổ.
Thái tử có tâm với các bậc tổ, quay về nước lớn thăm hỏi tổ là Đế Minh, bác là Đế Nghi. Thái tử là người có hiếu đễ lớn, trung tín khiêm nhường, có tam cương ngũ thường, là bậc có đức cả. Thái tổ mới đặt quốc thư phong cho Kinh Dương Vương là Thái Tổ Cao Hoàng Đế nước Nam, phong cho Lạc Long Quân là Hiền Vương nước Nam, cai trị Nam Bang. Vạn dân trong thiên hạ đều hân hoan, trăm họ yên vui. Đế tổ, Đế bá coi Thái tử như cốt nhục, xem như tinh túy đất trời, quý như châu ngọc vàng báu, vật quý cũng không bằng.
Đế tổ sắc phong tặng thêm cho Thái tử sách vàng, thẻ bài rồng, lụa ngọc, xe sách một mối, áo mũ chầu trời, áo bào cổn rồng, thắt lưng ngọc, giày vàng, cờ lọng quạt, ô vàng chiêng trống, xe loan giá rồng, voi ngựa tướng binh, lại ban cho đồ thần lụa vàng (vật quý lớn của trời Nam), ngọc châu mã não, quý lạ các vật, lại ban cho xe giá có chuông. Thái tử hồi giá khải hoàn về Nam Man, phụng giúp vua cha cai quản vạn dân.
Thời Thái tổ Đế Minh trong triều có vị Thiên sư biết thông trời đất người, xem thấy hết quỷ thần, chức vị ở Bắc triều là quan tướng, văn võ đều toàn. Nay theo lệnh Đế tổ sai Thiên sư giúp nước cho Thái tử cai quản Nam Bang, xem phong thủy, tìm đất lập nước định kinh đô, xây dựng thành trì, sửa sang chính điện, tạo nên cung thất, lãnh thổ đất đai, đặt tên sông núi, lập định ấp đô, địa đồ đất nước, sắp quan xếp tướng, đặt lệnh trấn các xứ, phủ, huyện, xã, châu, trang, động. Trên rừng dưới biển, nước có Thiên sư phụ giúp Vua cai trị bốn biển. Trăm họ nhân dân thiên hạ cùng hưởng phúc thái bình. Các chư hầu Bách Man đều xưng thần phụ thuộc.

Họ Hồng Bàng

 Tục truyền rằng vua đầu nước ta hiệu Kinh Dương Vương và vua đầu Bắc quốc hiệu Đế Nghi là hai anh em, con ngài Đế Minh, cháu 3 đời Viêm Đế Thần Nông. Viêm Đế Thần Nông là vị thần coi về trồng trọt ngũ cốc cho loài người.

Một hôm Ngọc Hoàng thượng đế trông xuống cõi trời Nam, thấy trên mặt đất phần lớn là hoa quả, ít ngũ cốc, mới bảo Thần Nông rằng:
- Ta sắc chỉ sai nhà ngươi xuống trần gian giúp cho giống người da vàng trồng lúa làm lương ăn.
Thần Nông bèn hội họp con cháu kể lại sắc chỉ của Ngọc Hoàng. Đế Minh là cháu ba đời nói rằng:
- Công việc mùa màng ở hạ giới rất vất vả. Vậy cháu xin đi thay.
Thần Nông khen Đế Minh là hiếu thảo, đưa cho hai hạt thóc, một để ăn, một để làm giống đem đi.
Đế Minh và vợ đáp mây lành xuống ở núi Nghĩa Lĩnh. Hàng ngày hai vợ chồng cậy một hạt thóc lấy bột gạo ăn, còn chiếc vỏ trấu để lại, sau dân thờ làm trấu thần.
Lại nói việc dạy dân trồng lúa. Vùng cao thì ông bà dậy họ phát nương đốt trà, chọc lỗ tra hạt (đao canh), vùng thấp thì đợi nước sông rút cạn, ruộng bãi đã thối ngấu cây cỏ, lấy trang cào mà đẩy cho sục bùn, đều phẳng, rồi gieo giống (thuỷ nậu). Lại dạy dân bỏ gạo vào ống tre đốt làm cơm mà ăn, bắt tôm cua làm mắm dùng gừng giềng làm gia vị, chưng cốt gạo lấy rượu uống, bắc gỗ làm nhà sàn tránh hổ sói, cưới xin thì lấy gói đất làm đầu, giết trâu dê làm đồ lễ, nấu cơm nếp nhập phòng cùng ăn, sau đó mới thành thân. Đẻ con ra lấy lá chuối lót cho nằm. Khi có người chết thì giã cối làm hiệu để bản làng đến cứu giúp.
Đế Minh sinh được hai con trai, anh là Lộc Tục, em là Lộc Linh. Một hôm có sứ của Ngọc Hoàng xuống triệu Đế Minh về trời. Ông gọi hai con đến bảo:
- Ngọc Hoàng sai ta xuống hạ giới có kỳ hạn, nay đã làm xong công việc. Trước khi về trời ta phong cho Lộc Tục cai quản phương Bắc. Lộc Linh cai quản phương Nam.
Lộc Tục cố nhường cho em phương Bắc, còn mình ở phương Nam. Đế Minh nghĩ “Lộc Tục thông minh hơn cho đất rộng hơn, chẳng ngờ lại từ tạ”, bất đắc dĩ cũng bằng lòng.
Lộc Linh nhận phương Bắc xưng là Đế Nghi.
Lộc Tục nhận phương Nam xưng là Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương có tài đi lại dưới nước, gặp Thần Long Nữ con gái vua Động Đình Hồ nhan sắc đẹp tươi, bèn lấy làm vợ. Thần Long Nữ sinh ra một người con trai mình đầy vảy rồng, đặt tên là Sùng Lăm. Sùng Lãm nối ngôi cha xưng hiệu là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân đi tuần thú tới động Lăng Xương gặp Tiên nữ Âu Cơ hái dâu bên bờ sông Đà, bèn lấy làm vợ đưa về ở núi Nghĩa Lĩnh.
Âu Cơ có mang ba năm ba tháng mười ngày, đến giờ ngọ ngày 25 tháng 12 năm Giáp Tý chuyển dạ sinh ra một bọc trăm trứng. Hôm ấy trời xanh nắng ấm, mây lành ấp núi, hương thơm ngan ngát đầy phòng.
Long Quân cho triệu triều thần đến lập đàn tế cáo trời đất. Các loài sơn cầm thuỷ tộc đều đến chầu mừng. Ngày 15 tháng Giêng năm ất sửu trăm quả trứng nở thành trăm con trai. Những người con này không bú mớm, chỉ ăn hoa quả, không nói năng, mỗi ngày cười 3 lần. Bỗng một hôm tất cả đều hô vang "Trời sinh vua trị nước, thiên hạ thái bình". Vợ chồng Âu Cơ rất mừng rỡ, nhưng không biết làm thế nào để phân biệt được đàn con đông đúc ấy, bèn đem lễ vật mời ông Tiên ngồi câu cá ở bến Việt Trì lên đặt tên cho từng người. Tiên ông đặt tên người con cả là Lân Lang, chín mươi chín người em cũng đều gọi là Lang như Xích Lang, Quynh Lang, Mật Lang...
Long Quân bảo Âu Cơ rằng:
- Ta là giống Rồng đứng đầu thuỷ tộc. Nàng là giống Tiên sống ở trên núi. Tuy khí âm dương hợp lại mà sinh ra con, nhưng thủy hỏa tương khắc khó ở lâu với nhau được, nay phải chia ly, ta đem 50 con về miền bể chia trị các xứ, cho 50 con theo nàng lên núi, chia nước mà trị. Lên núi, xuống bể hữu sự báo cho nhau biết, đừng quên. Trước khi đi, Long Quân phong cho người con trưởng làm vua và bảo các con rằng: "Giống sơn nam và giống thủy tộc thường ghét nhau. Hãy lấy mực săm mình cho giống giao long thì lội xuống nước mới không bị hại”. Lại dặn: "Khi nào có nguy cấp thì gọi to: “Bố ơi về cứu con”, "ta sẽ đến ngay”.
Lân Lang bèn xưng là Hùng Quốc Vương, đóng đô ở Việt Trì, đặt tên nước là Văn Lang, chia làm 15 bộ, sai các em đi trấn giữ. Kể từ đây các vua nối đều lấy hiệu là Hùng Vương, truyền được 18 đời (Đầu là Kinh Dương Vương, cuối là Hùng Duệ Vương

Đền Đôi Cô Tuyên Quang

 

      Đền Đôi Cô Tuyên Quang thuộc phường Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang. Đền Đôi Cô Tuyên Quang thờ Cô Đôi Thượng Ngàn và Cô Bơ Thoải Cung. Đó là hai thánh cô nổi tiếng trong Tứ Phủ Thánh Cô.

 

     Đền Đôi Cô được dựng trên một gò đất  ngay đầu cầu Nông Tiến bắc qua sông Lô luôn trong xanh. Đền Đôi Cô được xây dựng từ rất xa xưa, nhưng từ bao giờ thì không ai còn rõ. Thần phả, thánh tích về ngôi đền, do thăng trầm của lịch sử, nay cũng không còn, chỉ biết đây là một ngôi đền đã tồn tại từ lâu ở vùng đất ven sông Lô của Thành Phố Tuyên Quang. Đền Đôi Cô là một điểm tham quan tâm linh của một số tua du lịch tâm linh tỉnh Tuyên Quang.

 

Đền Đôi Cô Tuyên Quang

Lịch sử Đền Đôi Cô Tuyên Quang

     Trước đây,  Đền Đôi Cô chỉ có một cung nhỏ rộng vẹn vẹn chỉ khoảng chục mét vuông và rất ít người biết đến. Năm 1990, ngôi đền mới được tu sửa và mở rộng ngôi đền. Toàn bộ kinh phí xây dựng đền là tiền công đức của nhà đền và của khách thập phương. 

Kiến trúc Đền Đôi Cô Tuyên Quang

      Đền Đôi Cô sau khi được trùng tu, tu bổ đã khang trang, tố hảo hơn rất nhiều so với trước đây. Hiện Đền Đôi Cô được xây dựng với ba gian thờ, ứng với ba cung.

       Cung chính thờ Tam Tòa Thánh Mẫu và Đôi Cô. Bộ tượng Tam toà Thánh Mẫu được đặt trong khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng.  Chính giữa khám là tượng Mẫu Thượng Thiên; bên phải khám là tượng Mẫu Thoải; bên trái khám là tượng Mẫu Thượng Ngàn. Bộ tượng Đôi Cô được đặt trong khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, ngay bên dưới khám thờ Tam tòa Thánh Mẫu. 

      Cung bên trái thờ Bà Chúa Sơn trang. 

      Cung bên phải thờ đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

     Ngoài các cung trong đền chính ra, Đền Đôi Cô còn có Am thờ Sơn Thần và Lầu Cô thờ Tứ Phủ Thánh Cô.  Lầu Cô có thờ tượng ba vị Thánh Cô: Cô Chín, cô Tư, cô Bảy.

     Cũng lưu ý rằng, tại Tuyên Quang còn có một đền Đôi Cô khác nằm tại Phường Hưng Thành có tên là Đề trình Đôi Cô hay Đền trình Đôi Cô. Đền này còn có tên là Đền Móc Giằng. 



Thứ Năm, 1 tháng 9, 2016

Đền Cô Chín Tây Thiên

       Đền Cô Chín Tây Thiên nằm ở khu du lich tâm linh Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Khu du lịch tâm linh này được xếp hạnh lịch sử văn hóa quốc gia từ năm 1991.

 

Đền Cô Chín Tây Thiên

 

     Đền Cô Chín Tây Thiên được xây dựng bằng hương nhang của Đền Cô Chín Sòng Sơn và hương nhang bát hương ban Cô trong Đền Thượng trước đây.

        Đền Cô Chín Tây Thiên nằm trên lưng chừng ngọn núi cùng với Chùa Thượng, Đền Quốc Mẫu Tây Thiên, đền Mẫu địa, đền Thần núi, Miếu Sơn thần.. tạo thành một quần thể tâm linh đặc sắc chìm mình trong ngút ngàn rừng già, một chốn bồng lai tiên cảnh sơn thủy hữu tình. Đền Cô Chín Tây Thiên mới được xây dựng trong thời gian gần đây, khi nhà nước có chủ trương mở rộng khu du lịch tâm linh này.

         Đền Cô Chín Tây Thiên được xây dựng to, đẹp nhưng bài trí thờ lại khá đơn giản. Có lẽ nơi đây đã có đền thờ Mẫu Tây Thiên, Tam Tòa Thánh Mẫu với đủ các quan, chầu, cô, cậu nên tại đền Cô Chín thờ đơn giản như vậy. Đền chỉ có tiền cung và hậu cung. Tiền cung chỉ bài trí chính giữa là Ban Công Đồng, hai bên là Ban Cô Bé và Ban Cậu Bé.

 

Ban Công đồng Đền Cô Chín Tây Thiên

      Phía sau Ban Công Đồng là hậu cung với Ban Cô Chín Tây Thiên. Ban Cô Chín thờ tượng Cô Chín. Đây là một ngôi tượng lớn, đẹp, uy nghi và có thần thái. Đứng trước Cô, chúng ta cảm nhận một linh khí ào ạt tràn vào người. Một cảm giác lâng lâng giữa chốn sơn linh.

       Đứng trên đền Cô chúng ta có thể phóng tầm mắt về phía trước là một loạt các ngôi đền, chùa tạo nên một không gian tâm linh khoáng đạt. Một bức tranh hữu tình của núi non, cây lá và sương mờ găng phủ.

 

Tượng Cô Chín tại Đền Cô Chín Tây Thiên

    Cô Chín Tây Thiên cũng được coi là Cô Chín Thượng Ngàn. Đây được coi là nơi thờ vọng của Cô Chín Sòng Sơn. Như vậy, Cô Chín Tây Thiên và Cô Chín Sòng Sơn chỉ là một.

       Ngoài ra, Cô Chín còn được thờ tại Đền Cô Chín Thượng Bắc Giang, Đền Cô Chín Suối Rồng Đồ Sơn, Đền Cô Chín Đồng Mỏ ở Đồng Mỏ Lạng Sơn, đền Cô Chín Đồng Hỷ Thái Nguyên .... Tất nhiên, đền thờ chính của Cô Chín vẫn là Đền Cô Chín Sòng Sơn, còn các đền cô chín khác được coi là nơi thờ vọng của Cô.

 

Không gian tâm linh trước của đền Cô Chín Tây Thiên

 

   Mời các bạn tìm hiểu thêm: Tứ Phủ Thánh Cô, Tứ phủ quan Hoàng, Văn Khấn Tứ Phủ, Tứ Phủ Thánh Cậu, Tam Tòa Thánh Mẫu, Văn khấn Tứ Phủ, Các Ngày Tiệc, Khu du lịch tâm linh....bằng cách click vào các đường link đã cài ở các danh từ trên.



NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...