Hiển thị các bài đăng có nhãn 5 Ngũ Vị Tôn Quan. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn 5 Ngũ Vị Tôn Quan. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2019

Quan Lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh còn gọi là Đệ Ngũ Tuần Tranh hoặc Ông Lớn Tuần Tranh là vị Quan lớn đứng hàng thứ năm trong hàng Ngũ vị Tôn Quan (sau hàng Tam Tòa Thánh Mẫu) cũng cuối cùng xếp sau Quan lớn Đệ Tứ Khâm Sai. Ngài là vị tướng tài ba danh tiếng lẫy lừng, nắm quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh được nhân dân nhất mực tôn kính phụng thờ.

Sự tích Quan Lớn Tuần Tranh vào thời Hùng Vương

    Sự tích cho rằng Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh là con trai thứ năm của Vua Bát Hải Động Đình, ngài giáng dưới thời vua Hùng Định Vương trong Hùng Triều Thập Bát, vào một gia đình ở tại phủ Ninh Giang (Hải Dương). Ngài cũng là vị tướng quân tài ba kiêm lĩnh thuỷ bộ, được giao quyền trấn giữ miền duyên hải sông Tranh. Tại nơi đây ngài đã lập được nhiều công lao to lớn nên được sắc phong công hầu. Tại quê nhà, ông có cảm tình với một người thiếu nữ xinh đẹp, người thiếu nữ ấy vốn là vợ lẽ của quan huyện ở đó, nhưng vốn không hạnh phúc với cảnh “chồng chung”, nàng cũng đáp lại tình cảm của ông mà không hề nói cho ông biết là nàng đã có chồng. Vậy nên Quan Lớn Tuần Tranh vẫn đinh ninh đó là một tình cảm đẹp, hẹn ngày đưa nàng về làm vợ. Đến khi viên quan huyện kia biết chuyện, vu oan cho ông đã quyến rũ vợ mình. Quan Tuần Tranh bỗng nhiên mắc hàm oan, bị đem đày lên chốn Kì Cùng, Lạng Sơn. Tại đây, ông đã tự sát mong rửa oan, chứng tỏ mình vô tội, ông hoá xuống dòng sông Kì Cùng.

    Về lại nơi quê nhà, ông hiện thành đôi bạch xà, thử lòng ông bà nông lão, sau đó được ông bà nông dân nuôi nấng như thể con mình. Nhưng khi quan phủ biết chuyện ông bà nông lão tậu gà để nuôi đôi bạch xà, liền bắt ông bà phải lên cửa công chịu tội và giết chết đôi rắn kia đi. Hai ông bà thương xót, xin thả rắn xuống dòng sông Tranh, lạ thay khi vừa thả đôi bạch xà xuống thì chỗ đó tạo thành dòng xoáy dữ dội. Đến thời Thục Phán An Dương Vương, vua tập hợp thuyền bè để chống Triệu Đà ở ngay bến sông Tranh, nhưng tại chỗ dòng xoáy đó, thuyền bè không tài nào qua được mà lại có cơn giông tố nổi lên giữa dòng. Vua bèn mời các vị lão làng đến lập đàn cầu đảo thì lập tức sóng yên bể lặng, hơn nữa, quân sĩ ra trận cũng được thắng to. Ghi nhớ công đức, vua Thục giải oan cho ông và phong là Giảo Long Hầu. Sau này ông còn hiển thánh linh ứng, có phép nhà trời, cai quản âm binh, ra oai giúp dân sát quỷ trừ tà, dẹp hết những kẻ hại nước hại dân.

Truyền thuyết khác về Quan Lớn Tuần Tranh

Theo truyền thuyết, ngày xưa lưu truyền tại khu vực Đền Ninh Giang ngày nay: Ngày xưa ở làng Lạc Dục, huyện Tứ Kỳ có hai vợ chồng nhà nghèo, đã già mà chưa có con. Một hôm người chồng cuốc vườn bắt được ở cạnh bụi cây 2 quả trứng, ngỡ là trứng chim nên đem đi cất cẩn thận. Ngờ đâu, 2 quả trứng nở thành 2 con rắn. Người vợ sợ quá, định đem giết đi nhưng người chồng không nghe, nói rằng có lẽ trời cho ta khuây khỏa cảnh già đây. Quả nhiên, hai con rắn quấn quýt với 2 vợ chồng ông già. Một hôm ông cuốc đất, 1 con nhảy vào đùa nghịch, bị ông cuốc cụt đuôi (Về sau khi linh ứng, dân làng lập miếu thờ, gọi là miếu Ông Cộc, Ông Dài). Nhưng phải một nỗi, 2 con rắn ấy chỉ ăn gà thôi. Ông già đi ăn trộm gà cho chúng ăn nhiều rồi, sau sợ hàng xóm biết thì phải tội nên đành phải mang 2 con rắn vứt xuống sông Tranh. Chỗ vứt 2 con rắn ấy về sau sóng xoáy dữ lắm. Một hôm có bà công chúa muốn qua sông nhưng nớưc xoáy dữ, thuyền không qua được. Sau theo lời quan, dân sở tại đòi 2 vợ chông ông già đến hỏi chuyện. Bà lão sợ quá, bèn lấy 2 nắm cơm vứt xuống sông và nói rằng “con ơi, con có thương mẹ thì đừng nổi sóng nữa để mẹ khỏi tội”. Bà vừa nói xong thì sóng yên lặng.

Về sau có ông quan phủ tên là Trịnh Thường Quân được bổ về Ninh Giang. Ông lấy một người vợ lẽ đẹp lắm. Một hôm bà đi chơi thuyền trên sông Tranh, gặp một người dưới nước lên đòi lấy bà làm vợ. Bà nhất định không nghe. Đêm về, đang ngủ, bỗng lại thấy người đó hiện vào phòng, nhất định đòi lấy. Bà đem chuyện này nói với quan Phủ. QUan Phủ cũng lấy làm lạ nên phòng giữ cẩn thận. Một hôm ngài có việc quan đi vắng, đến luúc về thì thấy buồng không. Quan Phủ lấy làm phiền lắm, bèn từ chức, ngày ngày ra bờ sông Tranh tìm vợ. Sau gặp một ông Tiên tên là Quỷ Cốc ở miền Hải Quốc mách rằng bà Phủ đã bị Hoàng tử thứ 5 của Vua Thủy bắt xuống làm vợ rồi. Tiên Quỷ Cốc nghĩ thương tình quan Phủ nên giúp sức cho xuống được điện Vua Thủy mà kêu, Tiên cũng kêu hộ. Sau Vua Thủy cho cả hai vợ chồng về rồi bắt Hoàng tử thứ 5 đem đày ra sông Tranh. Từ đó dân ở 2 bên bờ thấy có nhiều điều kỳ dị nên lập đền thờ, gọi là đền Tranh. Dân quanh bến hoặc thuyền bè xuôi ngược qua đây nếu gặp sóng gió đều kêu cầu, sóng gió sẽ êm. Ai có cầu kiểu gì cũng đều linh ứng. Thỉnh thoảng những đêm trong sáng, có người trông thấy một thanh niên mũ áo từ trong đền đi ra. Người ta liền kháo nhau, đó là Quan lớn Tuần Tranh. Về sau, do có nhiều công giúp dân buôn thuyền, bán bè, qua sông bình an, may mắn nên vị thần được tôn là: Quan “đệ ngũ Tranh Giang Hoàng hợp tôn thần”. Đền Tranh có tiếng linh thiêng, cầu việc gì được việc ấy nên khách đến lễ ngày càng đông…

Kể về nỗi oan Quan Lớn Tuần Tranh

Nói về nỗi oan của Quan Lớn Tuần Tranh khi dâng văn có đoạn:

“Nào ngờ đâu đất trời thay đổi
Người anh hùng mang tội xiềng gông
Tháng năm đày chốn Kì Cùng
Oan vì tuyết nguyệt đổi lòng ái ân
Trước cung điện triều đình tra xét
Bắt long hầu truyền hết mọi nơi
Oan vì bướm lả ong lơi
Triết hoa đoạt vũ tội trời không dung
Lệnh viễn xứ sơn cùng thuỷ kiệt
Nỗi oan này có thấu cao minh
Áo bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân bách chiến tử sinh lẽ thường”

Hầu Quan Lớn Tuần Tranh khi ngự đồng

Trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan, cùng với Quan Lớn Đệ Tam, Quan Lớn Đệ Ngũ cũng là một vị quan lớn danh tiếng hết sức lẫy lừng, được nhân dân xa gần tôn kính phụng thờ. Tuy trong hàng Năm toà Quan Lớn, ông được thỉnh cuối cùng nhưng lại hay ngự về đồng nhất. Bất cứ ai hầu Tứ Phủ, bất cứ dịp lễ tiệc, đàn tràng nào cũng đều phải thỉnh Quan Lướn Tuần Tranh về ngự.

Quan lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh giá ngự về đồng.

Khi loan giá ngự đồng ông mặc áo lam thêu rồng, hổ phù. Sau khi làm lễ tấu hương, khai quang, ngài chứng sớ tán đàn rồi múa thanh long đao. Khi có đại đàn mở phủ hay bất cứ lễ tiệc nào, sau khi thỉnh các Quan lớn về, đều phải đợi đến khi giá Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh về chứng một lần hết tất cả các đàn mã sớ rồi mới được đem đi hoá.

>>> Xem thêm: Đệ Ngũ Vương Quan

Đền thờ Quan Lớn Tuần Tranh

Quan Lớn Tuần Tranh cũng được thờ ở rất nhiều nơi, đền nào cũng có ban Ngũ vị Tôn Quan thờ ngài, tuy nhiên để nói về đền chính thờ thì phải kể đến hai nơi nổi tiếng bậc nhất:

    • Đền Ninh Giang hay Đền Quan Lớn Tuần Tranh lập bên bến sông (bến đò) Tranh ở Ninh Giang, Hải Dương (là nơi chính quán quê nhà của ông, nơi ông trấn giữ duyên hải sông Tranh, cũng là nơi ông hiển tích).
    • Đền Kì Cùng lập bên bến sông Kì Cùng, qua cầu Kì Lừa (là nơi ông bị lưu đày).

Quan Lớn Tuần Tranh

Quan đệ Ngũ Tuần Tranh

Đền Tranh thờ Quan Lớn Tuần Tranh

Tiệc Quan Lớn Tuần Tranh

Ngày tiệc chính của quan là ngày 25/5 âm lịch (là ngày ông bị lưu đày và bảo nhân dân quê ông làm giỗ vào ngày này), ngoài ra vào ngày 14/2, các đền thờ ông cũng mở tiệc đón ngày đản sinh của quan.

Văn Khấn Quan Lớn Tuần Tranh

(Bản văn Tham khảo)

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu

Kính lạy: Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh, cộng đồng các quan.

Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Các bản văn Quan Lớn Tuần Tranh

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 1

Đệ tử tôi khấu đầu củng thủ
Tiến văn chầu đệ ngũ Tuần Tranh
Uy gia lẫm liệt tung hoành
Trừ tà sát quỷ nên danh tướng tài
Cảnh thiên thai Quan Tuần giá ngự
Các bộ nàng tiên nữ dâng hoa

Ninh Giang chính quán quê nhà
Danh lam cổ tích ngự tòa ngôi cao
Đấng anh hào cổ kim lừng lẫy
Khắp mọi miền đã dậy thần cơ
Cửa sông đâu đó phụng thờ
Kỳ Cùng lại nổi đền thờ Tuần Tranh


Cảnh am thanh nhiều bề lịch sử
Vốn đặt bầy tự cổ dĩ lai
Có phen chơi chốn thiên đài
Đào, Lan, Quế, Huệ vui vầy xướng ca
Trên bát ngát Long, Xà, Hổ phục
Dưới tam đầu cửu khúc chầu lên


Lân rờn Phượng múa đôi bên
Thỉnh ông Đệ Ngũ ngự trên sập rồng
Sắc vua phong kiêm tri tam giới
Hay tróc tà sát quỷ trừ tinh
Quan Tuần vạn phép muôn linh
Quyền ông cai quản thiên binh nhà trời


Ngự đồng chơi minh quyền bóng quý
Nương uy trời thuỵ khí đoan trang
Quan Tuần hiển hách uy quang
Ra tay tế độ trần gian được nhờ
Lúc bấy giờ ra uy hùng hổ
Nương uy trời cứu độ sinh nhân
Đùng đùng nổi trận phong vân
Thượng đồng ban phép cứu dân trừ tà


Khắp gần xa bách quan đều phục
Ai có lòng hưởng phúc hà sa
Dù ai bệnh hạn không qua
Cầu quan Đệ Ngũ bệnh đà tan không
Nay dốc lòng ơn ông vạn bội
Hoặc ai mà nhầm lỗi truyền tha
Hay là cách trở giang hà
Cầm cờ chỉ núi núi đà tan không


Tiếng nức danh tung hoành dũng lược
Cảnh non bồng nước nhược bồng lai
Khi chơi bạn trúc bạn mai
Bàn loan tiệc ngọc vui vầy sướng ca
Các bộ nàng ra tay bẻ quế
Quan dạo chơi thành thị hồ tiên
Ba nghìn thế giới dư thiên
Tiếng Quan Đệ Ngũ khắp miền đông tây


Uy ra thổi gió thét mây
Phép ông ứng hiện đổ cây tốc nhà
Bốn phương hoà đội ơn đức cả
Ai có lòng hỉ xả từ bi
Phút thôi ông lại biến đi
Cưỡi tướng Bạch Hổ lên chầu thượng thiên

Khi cầm quyền còn đương tra sổ
Hay ông còn đổi sổ cho ai
Thiên binh văn võ gồm tài
Đức ông lịch sự đáng trai anh hùng
Đêm ngày giữ việc thuỷ cung
Đợi lệnh cửu trùng cứu trợ sinh nhân

Ai mà cầu nhân đắc nhân
Cầu phúc đắc phúc bản thân điều hoà
Kiên tri tam giới các toà
Ông về giáng ngự xướng ca điện tiền
Chữ thập biến làm chữ thiên
Phù hộ đệ tử thiên niên hoà hài

Một nguyện giáng phúc trừ tai
Đồng gia nam nữ ai ai thịnh cường
Hai nguyện buôn bán trăm đường
Tiền vàng lưu loát bạc vàng đề đa
Nguyện thứ ba công hầu cập đệ

Hộ tiểu tôi phú quý giầu sang
Bốn nguyện quốc phú dân an
Can qua ninh tỉnh dân an thái bình
Ông về linh giáng điện đình
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 2:

Việt sử chép Hùng triều thập bát
Cảnh địa linh Bạch Hạc Phong Châu
Dựng nền xã tắc dài lâu
Nhớ ơn tiên tổ đời sau giữ gìn

Vừa gặp hội bể yên sóng lặng
Triệu bách thần gia tặng phong công
Quan Tuần Tranh lẫm liệt oai hùng
Cứu dân hộ quốc nên công hàng đầu

Giảo Long hầu khâm ban sắc tứ
Trấn Ninh Giang thuỷ bộ chư danh
Bao phen đắp luỹ xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng

Tài cung kiếm sánh cùng võ tử
Đức kinh luân ví tựa Trương Tô
Phong lưu mã thượng giang hồ
Cung cầm dưới nguyệt con đò trên sông

Chí đã quyết ngoài vòng cương toả
Hay đâu là duyên nợ ba sinh
Buồng xuân thiếu bạn chung tình
Thoả lòng tráng sĩ tài danh phỉ nguyền

Thề non nước nên duyên kì ngộ
Bỗng đâu ngờ mắc nợ oan khiên
Tin đâu khẩn cấp ban truyền
Quan quân tầm nã khắp miền sông tranh

Có ngờ đâu đất trời thay đổi,
Người anh hùng cổ nặng xiềng gông.
Ngài bị bắt giam ở chốn Kỳ Cùng
Quan oan vì tuyết nguyệt, bởi lòng ái ân

Trước cung điện, triều đình tra xét,
Bắt long hầu chuyển khắp mọi nơi.
Ngài oan vì ong bướm lả lơi,
Chiết hoa, đoạt phụ tội trời không dung.

lệnh viễn xứ sơn cùng, thuỷ kiệt,
Nỗi oan này thấu tỏ hỡi cao minh.
Hoàng bào đã nhuộm chàm xanh
Tấm thân đành nhẹ, nhục vinh lẽ thường

Đường thiên lý quan san bỡ ngỡ
Hỏi trăng già có tỏ cho ai
Hỏi trăng hỏi gió hỏi trời
Hỏi rằng nguyệt lão trêu người vì đâu

Hỏi cây cỏ sao mưa dầu nắng dãi,
Vẫn vươn mình há ngại phong ba.
Cỏ cây ơi có thấu tỏ lòng ta,
Sơn cùng thuỷ kiệt sương sa lạnh lùng

Thà thác vinh còn hơn sống nhục,
Sông Kỳ Cùng tắm ngọc Côn Sơn
Kiệt Cùng hiu hắt trăng non
Sông Cùng trong đục nước tuôn đôi dòng

Ngẫm cảnh vật lòng đau như cắt
Nợ trần hoàn quyết dứt cho xong
Lòng riêng đã quyết với lòng
Mượn dây oan nghiệt cho xong tội trời

Rừng hoa cỏ thương người đã khuất
Bỗng đùng đùng gió giật mưa sa
Nỗi oan chuyển động đất trời
Dây oan kia biến thành đôi bạch xà

Đất Ninh Giang tìm nhà hữu phúc
Thử lòng người trong lúc lánh thân
Tháng hai vừa tiết trung tuần
Thử lòng ông lão mộng thần ứng ngay

Tỉnh giấc mộng mới hay sự lạ
Đôi bạch xà tựa cửa hai bên
Long xà kì dị thảo hiền
Từ khi xuất hiện vui thêm cửa nhà

Ba tháng sau đàn gà đã hết
Thương rắn hiền không biết lo sao
Khó khăn âu cũng tính liều
Ông bà nông lão sớm chiều đông tây

Bỗng một buổi tai bay hoạ rủi
Hai ông bà mắc tội cửa công
Lệnh nghiêm sấm sét đùng đùng
Tậu gà nuôi rắn không dung tội này

Lệ nuốt lệ đắng cay xiết kể
Thương rắn thần tựa thể thương con
Khấu đầu tạ trước công môn
Xin đem đôi rắn thả luôn giữa dòng

Cơn phong vũ ầm ầm nổi dậy
Sóng bạc đầu nước xoáy mênh mông
Long xà thoát xuống thuỷ cung
Nước rẽ đôi dòng cuồn cuộn chứa chan

Khắp duyên hải sấm ran từ đấy
Bóng long hầu nổi dậy nơi nơi
Những phường bán nước hại nòi
Gian tà quỷ quyệt tội trời không tha

Dìm đáy nước về toà thuỷ tộc
Tội gia hình bõ lúc sai ngoa
Lẽ thường tội báo oan gia
Hại nhân nhân hại sự đà không sai

Nước Văn Lang vào đời Thục Phán,
Giặc Triệu Đà có ý xâm lăng,
Triều đình ra lệnh tiến binh,
Thuyền bè qua bên sông Tranh rợp trời.

Bỗng nổi trận phong lôi bão táp
Ba quân đều sợ hãi khiếp kinh
Hỏi ra mới biết sự tình
Thiết bày hương án lễ trình bên sông

Mời trưởng lão trong vùng thôn xóm
Khấn vừa xong gió lặng sóng yên
Uy linh sự đã hiển nhiên
Lệnh truyền dân xã lập đền bên sông

Công hộ quốc gia phong thượng đẳng,
Tước phong hầu truy tặng Đại vương,
Bảng vàng thánh thọ vô cương
Hiếu trung tiết nghĩa đôi đường vẹn hai.

Gương anh hùng muôn đời soi tỏ,
Đất Văn Lang thiên cổ anh linh,
Bao phen đắp luỹ xây thành,
Khắp miền duyên hải, sông Tranh nức lòng.

Bản văn Quan Lớn Tuần Tranh thứ 3

Quyết mở đường dân an quôc thái
Dựng cơ đồ vạn đại cao sơn
Nhớ xưa tích cũ nhiệm màu
Quan Lớn Tuần trắc giá ngự đầu kim tinh


Tuổi niên thiếu đao binh yên ngựa
Sống vì đời thác trợ muôn dân
Sinh làm tướng thác làm thần
Dấu thiêng ghi để muôn dân phụng thờ
Gương đã tỏ soi đời càng tỏ
Trấn Ninh Giang vạn cổ anh linh


Bao phen đắp lũy xây thành
Khắp miền duyên hải sông Tranh nức lòng
Quan Lớn Tuần đánh Đông dẹp Bắc
Đã quyết lòng đánh giặc ghi công
Làm trai đáng mặt anh hùng
Sông Thương đột phá treo cung non Đoài


Gương anh khí sáng ngời muôn thủa
Chí hào hùng rạng rỡ non sông
Vinh quang thay nòi giống tiên rồng
Muôn dân ghi nhớ Quan Tuần ngài tài cao

Thơ:

Sông Tranh ơi hỡi sông Tranh,
Non nước còn ghi trận tung hoành,
Lẫm liệt oai hùng gương tráng sĩ,
Ngàn thu ghi để dấu oai linh.


Ai về qua bến sông Tranh,
Nhớ người tráng sĩ tài danh tuyệt vời.
Dẫu rằng nước chảy hoa trôi,
Sông Tranh dù cạn, ơn người còn ghi.


Loa đồng hỏi nước sông Tranh,
Long đao cứu nước, anh hùng là ai?
Sông Tranh đáp tiếng trả lời,
Có Quan đệ ngũ, chính người Ninh Giang


Nước sông Tranh đêm ngày vẫn chảy
Sóng tuôn trào cuồn cuộn về đâu
Chúng con nhớ người tráng sĩ lập lên công
Ngàn năm ghi nhớ Quan Tuần tài kiêu


Ngựa chiến xông pha đao thần ra trận
Sinh tử vì đời trung hiếu đạo vua tôi

Thứ Sáu, 4 tháng 1, 2019

Quan Đệ tứ Khâm Sai

Quan Đệ Tứ Khâm Sai có tên đầy đủ là Quan lớn Đệ tứ Khâm Sai quyền cai Tứ phủ, là vị quan lớn đứng hàng thứ tư trong Ngũ vị Tôn Quan, trấn giữ đồng bằng địa linh và ngài không giáng trần mà ngự trên Thiên Đình, biên chép sổ sách sinh tử nên không có sự tích nào về ngài.

Quan Đệ Tứ Khâm Sai là ai ?

Quan Đệ Tứ Khâm Sai vốn là con trai thứ tư của Vua Cha Bát Hải Động Đình, cũng là một trong năm vị tướng (ngũ vị tôn quan) cùng vua Cha Bát Hải Động Đình đánh đuổi ngoại xâm, ngài được vua cha tước phong Thiên Hựu Đại Vương thượng đẳng tối linh thần, giao quyền trấn giữ đồng bằng địa linh, giữ quyền khâm sai tứ phủ. Trong hàng ngũ vi tôn quan thì ngài trấn giữ ở vị trí trung tâm trời đất, thường ngự trên Thiên Đình, biên chép sổ sách sinh tử, chầu chực bên bệ ngọc bàn loan. Cũng như Quan Đệ Nhất, Quan Đệ Tứ không giáng trần.

Quan Đệ Tứ Khâm Sai khi ngự đồng thế nào ?

Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai ít khi giáng đồng nhất, chỉ khi nào có đại lễ mới thỉnh ngài về. Khi ngự đồng ngài mặc áo vàng thêu rồng, hổ phù; sau khi làm lễ tấu hương khai quang rồi chứng sớ điệp. Thông thường, khi mở phủ khai đàn, người ta mới hay thỉnh Quan Đệ Tứ về để chứng đàn Địa Phủ gồm long chu, phượng mã, tượng phục, nghê quỳ (voi và nghê hoặc lân… tất cả đều màu vàng.

Quan Đệ Tứ Khâm Sai

Hình ảnh Quan lớn Đệ Tứ Khâm Sai khi ngự đồng

Đền thờ Quan Đệ Tứ Khâm Sai ở đâu ?

Đền chính thờ Quan Đệ Tứ Khâm Sai năm trên phố Đông Thái, Thị Trấn Vĩnh Bảo, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Con nhang đệ tử muốn đến cửa Quan dâng lễ có thể di chuyển bằng phương tiện cá nhân như ô tô hay xe máy hoặc xe khách đều rất thuận tiện.

Nếu đi bằng xe khách từ Hà Nội sẽ mất khoảng 2 tiếng để đến đền Quan Lớn Đệ Tứ, giá vé mỗi nhà xe khoảng 120.000đ. Bạn đến bến xe Giáp Bát, hoặc bến xe Yên Nghĩa là có thể dễ dàng bắt xe về bến xe Vĩnh Bảo Hải Phòng. Xuống xe đi bộ khoảng 550m là đến đền.

Quan lớn đệ tứ khâm sai

Nếu đi bằng ô tô từ Hà Nội thời gian di chuyển nhanh hơn với lộ trình theo QL1A , đường Cao tốc Hà Nội – Hải Phòng lối ra về hướng QL5/Thái Bình lái xe đến QL10/QL37 tại Thị trấn Vĩnh Bảo rồi đến đền Quan Lớn Đệ Tứ Khâm Sai chỉ chừng hơn 1 tiếng đồng hồ.

Ngoài ra, tại các đền phủ điện trong hệ thống Tứ phủ, ngài được thờ trên ban thờ Ngũ Vị Tôn Quan.

Bản văn Quan Lớn Đệ Tứ

Khi thỉnh Quan Đệ Tứ Khâm Sai cung văn thường dâng Quan các bản văn sau:

Bản văn Quan Đệ Tứ Khâm Sai thứ 1

Tiệc bàn loan thỉnh mời quan đệ tứ
Vốn con trời cai xứ thiên cung
Sắc rồng choi chói vua phong
Quyền Quan Đệ Tứ uy hùng dậy vang
Chuyển quan san trên trời dưới đất
Quản thông tri phép phật truyền ra
Cầu ô bắc sông Ngân Hà
Liệt hàng tinh tú bày ra ngang trời

Thử dạo chơi sao sa lác đác
Cửu Diệu cùng đài các đế tinh
Tam quang thất đẩu ngũ hành
Nhị thập bát tú thiên đình hà sa 

Mới tâu qua Nam Tào Bắc Đẩu
Số trần gian lão ấu chép biên
Ai người hiếu thuận thảo hiền
Tu nhân tích đức chép biên rõ ràng
bao nhiêu kẻ ngang tàng bạo ngược
chỉ hại người chẳng trước thời sau
Lỗi lầm có xá chi đâu
bao nhiêu đệ tử cúi đầu làm tôi

Phú:

Y quan văn vật
nổi dấu thiêng tứ phủ vạn linh
Sơn xuyên dục tú hà hải chung linh
Thiên niên dốc một bầu vũ trụ
Trên phù tía ngai vàng lồ lộ
vẻ lâu đài in bóng tranh vanh
bảng vàng thiên cổ vị nhân
Gồm nam bắc thu về một mối
Kỳ lễ nghĩa văn minh chi hội
Dương thanh danh vạn vật chi đô
Vang tiếng để sơn thần cung kiệt.

Thứ Năm, 3 tháng 1, 2019

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

 Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ 

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam hoặc Đệ Tam Vương Quan, ngài là Quan lớn con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha rất mực yêu quý giao cho cai quản miền Thoải phủ và hầu cận kề bên vua cha. Trong dân gian vẫn thường ca tụng về sự anh linh và sức mạnh cũng như tài phép của Quan Lớn Đệ Tam Thoải phủ như:

Giáp bạc bao phen rực lửa hồng
Xông pha trăm trận cũng như không
Ra tay cứu nước trừ nguy biến
Tiếng để ngàn thu với non sông

Hay nói về tài phép của Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ thì văn dâng ngài có đoạn:

“Hoá tức thì lâu đài điện các
Dâng nước về Thuỷ Quốc một khi
Có phen lấy ngọc lưu ly
Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang”

Quan Lớn Đệ Tam là ai ?

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ hay còn gọi là Thái tử Đệ Tam. Quan lớn vốn là con trai thứ ba của Vua Cha Bát Hải Động Đình, là người rất được vua cha yêu quý nên giao quyền cai quản chốn Long Giai Động Đình, cận bên cạnh phụ vương. Khi Ông hoá đi, về chầu Long Cung, là người cầm cân nảy mực, thông tri Tam Giới, quyền cai các thanh đồng đạo quan (vậy nên có khi người ta còn gọi là Ông Cai Đầu Đồng). Khi thanh nhàn ông truyền ba quân tập hợp thuyền bè, dạo chơi khắp miền, trên sông dưới suối, phù hộ cho ngư dân.

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Sự tích Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Căn cứ tài liệu “Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế sự tích” đang được lưu giữ tại Đền Lảnh Giang thì huyền tích về Quan lớn Đệ tam tóm tắt như sau:

Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, nhưng không có con. Một đêm, vợ ông là bà Trần Thị Ngoạn đang dạo chơi bỗng gặp một người con gái mồ côi đi tha phương cầu thực. Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt tên là Quý. Vài năm sau, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.

Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội, ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Từ hôm đó nàng Quý mang thai. Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc. Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình), mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh. Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động, con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng, xin được lập sinh từ để thờ.

Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông, ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:

“Sinh là tướng, hóa là thần

Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời

Khi nào giặc dã khắp nơi

Bọn ta mới trở thành người thế gian”

Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.

Bấy giờ Thục Phán có ý định cướp ngôi vua Hùng Duệ Vương. Thục Phán cầu viện binh phương Bắc đánh vào kinh đô. Duệ Vương bèn lập đàn cầu đảo. Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông. Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Hai em và các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, quân Thục đều bị tiêu diệt. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng. 

Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình. Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền miếu để phụng thờ. Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7.

Nhưng lại có truyền thuyết khác kể lại thì Quan Lớn Đệ Tam trong một trận đánh, ông đã thác trận, xác phàm của ông bị chém làm đôi rồi ném trôi sông, phần đầu trôi dạt vào bãi sông thuộc làng Xích Đằng (phường Lam Sơn, Thành phố Hưng Yên), dân làng đã lập đền thờ tưởng nhớ ông ở đây. Còn phần thân dạt vào ven sông thuộc thôn Yên Lạc (xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), cũng được dân làng nơi đây chôn cất và lập đền thờ tưởng nhớ, đó là đền Lảnh Giang.

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

>>> Xem thêm: Cộng đồng Thoải Phủ

 

Hầu giá Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Hầu như những người đã ra hầu Tứ Phủ, khi hầu hàng Quan Lớn, ai cũng phải hầu về Quan Đệ Tam. Có thể coi ông là vị Quan Lớn tài danh hàng đầu.

Khi ngự đồng, ông mặc áo trắng thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ điệp và ông múa đôi song kiếm. Khi có đại tiệc khai đàn mở phủ, người ta thỉnh quan về chứng đàn Thoải Phủ (gồm có long chu phượng mã, lốt tam đầu cửu vĩ…: tất cả đều màu trắng).

Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ loan giá ngự đồng

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Đền thờ Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ được lập ở Lạng Sơn, Hưng Yên, Lảnh Giang Linh Từ (Nam Hà) và các cửa sông. Đền ngài còn ở Thái Bình ngay đằng sau đền Đồng Bằng phía QL 10 đi Hải Phòng.

Đền Lảnh Giang (nhân dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam, huyện Duy Tiên, Hà Nam. Theo Thần Phả, Đền này thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.

Bản văn Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Trịnh giang biên giành ngân lai láng

Đôi vầng hồng soi rạng nam minh

Con vua thủy quốc Động Đình

Đệ tam thái tử giáng sinh đền Rồng

Dọc:

Đức gồm vẹn thung dung hòa mặc

Bẩm sinh thành tư chất long nhan

Thỉnh mời thái tử thái tử vương quan

Phi phương diện mạo dung nhan khác thường

 

Hằng tấu đối thiên đường thủy phủ

Trấn nam minh quy đủ bốn phương

Ra uy chấp chính kỉ cương

Cầm cân nảy mực sửa sang cõi đời

 

Chốn long giai cầm quyền thay chúa

Phép màu quan tối tú tối linh

Lệnh truyền thủy bộ chư dinh

Sửa sang đai giáp chơi miền trần gian

 

Dâng một triền nhang lòng thành dâng một triền nhang

Tấu về thủy phủ các ban các tòa thiên đình cho tới diêm la  

Thiên đình cho tới diêm la tấu vè thoải phủ vua cha động đình

Chốn ấy là chốn thủy cung

Phú:

Nhanh dâng một chuyện tâu thỉnh đức vương quan

Đệ tử con tiến văn đàn

Dâng sự tích đệ tam hoàng thái tử

 

Sơn xuyên dục tú “hà hải chung linh”(2)

Người con vua thoải quốc động đình

Sắc phong tặng vương quan hoàng thái tử

 

Văn thần cẩm tú võ tổng lược thao

Bẩm dung y diện mạo hồng hào

Ngôn trung chính tài cao quán cổ

Thơ:

Giáp bạc bao phen nhuộm đỏ hồng

Xông pha trăm trận dạ như không

Ra tay cứu nước trừ nguy biến

Tiếng để ngàn thu với núi sông

Xá lửng:

Chiếc thuyền lam nổi dòng Xích Bích

Đưa quân chèo du lịch bốn phương

Có phen tuần thú sông Thương

Trở ra tỉnh Bắc , Quế Dương, Lục Đầu

 

Có phen ngự sông Dâu sông Hát

Khi lên ghềnh xuống thác vui chơi

Có phen vào lạch ra khơi

Sai quân lấy gỗ xoan đào chò hoa

 

Có phen chơi ngã ba Bạch Hạc

Bạn tiên ngồi đàn hát vui chơi

Dạo xem phong cảnh mọi nơi

Qua hang Anh Vũ sang chơi nước người

 

Có phen chơi cửa đài cửa bích

Khi ra khơi vào lạch thảnh thơi

Thuyền rồng trăm chiếc chèo bơi

Dọc ngang Tuần Lảnh là nơi đi về

 

Trải giang khê lên ngàn xuống bể

Lảnh Giang từ quý địa danh lam

Đền thờ quan tam tía kiệu vàng

Long môn hổ bàn thạch bàn uy nghi

 

Hóa tức thì lâu đài điện các

Dâng nước về thủy quốc một khi

Có phen lấy ngọc lưu ly

Đùng đùng dâng nước phép thì ai đang

 

Khắp sông Thương , sông Thao , sông Cả

Kéo quân về đóng ngã ba Tranh

Xướng ca đàn hát tập tành

Thi ngâm phú đọc đàn tranh chơi bời

 

Có phen lại về nơi thủy phủ

Đóng cân đai áo mũ vào tâu

Dăm ba đồng tử theo hầu

Vào tâu Vương phụ ra chầu Mẫu vương

 

Cũng có khi phi thường biến hóa

Qua Nghệ An thượng hạ đại giang

Thuyền rồng chèo quế buồm lan

Khi chơi Tô Lịch khi sang sông Cầu

 

Có phen ngự Nam lâu Bắc điện

Trở ra về đến huyện Thiên Tôn

Dạo miền thác cái thác con

Khi chơi sông Hát khi sang sông Bờ

 

Dạo thẩn thơ Tản Viên Tam Đảo

Truyền chư quân đôi đạo tiên phong

Chuông kêu cờ phất trống dong

Bè sau thuyền trước giữa dòng lênh đênh

 

Trống cầm canh chiêng vang anh ỏi

Lốt xanh vàng chìm nổi dư muôn

Triều thần văn vũ bách quan

Sai lên đón rước vương quan về chầu

 

Trên các lầu thơ ngâm phú đọc

Ngoài sân rồng ca chúc chén tiên

Vua cha giá ngự ngai vàng

Phán đòi thái tử vương quan vào chầu

 

Ngự giờ lâu phán lời nhân thứ

Sai ông lên cứu trợ trần gian

Một tay thái tử vương quan

Cứu sinh cũng lắm đọ oan cũng nhiều

 

Nay ông đã về chầu nhân đức

Độ nhân gian vạn ức siêu sinh

Nay ông về chốn thủy đình

Cuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.

 

Khánh tiệc Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

Ngày 24 tháng 6 là ngày chính tiệc Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

 

Văn khấn Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ

(Nội dung tham khảo)

Nam mô A di đà phật !
Nam mô A di đà phật !
Nam mô A di đà phật !
Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu
Kính lạy: Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ, cộng đồng các quan.
Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật
Tín chủ con là ………..
Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Tam cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Tam cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2019

Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát

Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát hay còn được gọi là Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn hoặc Đệ Nhị Vương Quan là vị tôn quan đứng thứ hai sau Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên và đứng trước Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan cộng đồng các Quan.Ngài nổi tiếng là vị tôn quan linh thiêng anh linh Tứ Phủ, được nhân dân cung kính và thờ phụng thành tâm tại nhiều ngôi đền trên cả nước.

“Thượng ngàn giám sát quyền cai
Thông tri tam giới khâm sai đại thần
Có phen giá vũ đằng vân
Bát muôn công tử xa gần làm tôi”

Quan Lớn Đệ Nhị là ai ?

Quan Lớn Đệ Nhị vốn là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình, ngài theo lệnh Vua Cha, hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung (có sách nói là ông hạ phàm ngày mồng ba tháng mười một năm Ất Dậu vào một nhà quý tộc). Ngài văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được khắp muôn dân nơi nơi ngưỡng mộ, các vương tôn công tử đều thuận tình đến làm học trò. Đến khi về chầu Thiên Đình, ngài lại được giao quyền giám sát cai quản miền sơn lâm, thượng Ngàn. Ngài giáng thế ban phúc trừ tai cho dân, khi dân chúng bị hạn hán, cầu đảo tới ngài thì lập tức có mưa thuận gió hòa.

Quan Lớn Đệ Nhất

Sự tích về Quan Lớn Đệ Nhị

Sự tích về Quan Lớn Đệ Nhị vào đời Hùng Vương thứ 6, ngài giáng trần giúp Đức Thánh Gióng chiến thắng giặc Ân, sau đó ngài thác hóa tại Vân Đình. Đến đời Hùng Vương thứ 18, quan hạ sinh tại đất Nam Ninh vào nhà họ Nguyễn tên là Nguyễn Chiêu Minh. Tại đây, ngài trở thành một trong những vị tướng phò Vua Cha Bát Hải Động Đình Vĩnh Công Đại Vương đánh giặc Thục xâm lược. Sau này, cũng theo lệnh vua Cha, ngài đầu thai vào một nhà quý tộc tại Hoàng Cung thời nhà Lê vào ngày 10/10 năm Bính Dần (cũng có sách nói ông hạ phàm ngày mùng 3/11 năm Ất Dậu). Đến khi trở về thiên đình, ngài lại được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm Thượng Ngàn. Ngài giáng thế ban phúc cho dân. Khi nhân dân gặp hạn hán, mất mùa, cầu đảo quan ông thì ngài lập tức cho mưa gió thuận hòa. Hàng năm, vào ngày 11/11 âm lịch hàng năm, người dân tổ chức lễ tiệc Quan Đệ Nhị Giám Sát.

Ngoài sự tích trên còn căn cứ theo các văn hầu từ thời xưa để lại chúng ta có thể mường tượng về Ngài. Ngài vốn là ở cõi Thiên Đình, con vua Ngọc Hoàng được giáng xuống trần gian:


Vốn xưa ông ở thiên đình
Con vua Thượng Đế giáng thần dương gian

Ngài sinh ra trong một gia đình quý tộc. Ngay từ thủa nhỏ Ngài đã giỏi văn thơ và nổi tiếng thông minh, không ngoan:

Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan.

Bỗng một hôm đến hạn về trời, trời bỗng nổi mưa gió, bão bùng Hà Bá, Thủy thần đã rước Ngài đi. Ngày Ngài hóa cũng là ngày mùng 3 tháng giêng.

Chẳng ngờ Thượng Đế đến kì
Mồng ba tháng một, một khi giờ dần
Sắc sai hà bá thuỷ thần
Quần tiên đón rước chẳng nhầm một ai

Về chốn Thiên Cung ông có nhiệm vụ “Quản tam giới quyền cai giám sát” nên chuyên lo về sổ sách sinh tử của cõi trần gian:

Sổ hội đồng một tay nắm giữ
Số trần gian sinh tử sót ai.

Nên ông là vị thánh chuyên cân đong tội, công và điều chỉnh họa phước cho  các sinh linh trong cõi trần thế.

Rút dây tội phước cân người tội cô ng.

Ông còn là một vị thánh văn võ song toàn:

Võ thời ví với Đức Quan
Văn thời sánh ví Mạnh Nhan thay là.

Ông còn giỏi cờ, thi ca, phú họa:

Cờ Tiên một đấu thơ vài trăm thiên.

Ông là một vị thánh anh minh, độ lượng, hết lòng cứu giúp cho mọi sự an khiên, bất hạnh của cõi dương gian:

Dù ai hữu sự kêu van
Khấn Quan Đệ Nhị thọ khang yên lành

Đó là một vị thánh nổi tiêng trong tứ phủ bởi sự thông minh, chính trực, luôn một lòng độ cho nước cho dân:

Thông minh chính trực, giúp nước phù đời
Quyền sơn lâm cai khắp mọi nơi
Vâng ngọc chỉ giáng thần Nam Việt
Anh hùng hào kiệt, độ khắp vạn dân

Hầu Quan Lớn Đệ Nhị

Quan Lớn Đệ Nhị là một trong ba vị quan lớn rất hay ngự đồng kể cả trong những ngày tiệc vui hay khoa lễ thông thường đều thỉnh Quan Lớn Đệ Nhị về chứng đàn chứng sớ. Khi ngự đồng, Quan Lớn Đệ Nhị mặc áo xanh (cũng có khi là xanh lá cây) thêu rồng, hổ phù. Ngài về làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm (theo cách hầu Quan Giám Sát thì có nơi múa đôi kiếm, có nơi múa một kiếm, có nơi lại múa một kiếm một cờ như lúc ngài ra trận).

Cũng như Quan Lớn Đệ Nhất, khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Lớn Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ (Thượng Ngàn) đàn mã đều màu xanh. Ngoài ra vào những dịp đại lễ như mở phủ khai đàn, tạ phủ…trước ngày làm lễ, người ta thường thỉnh Quan Lớn Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ.

Đền thờ Quan Lớn Đệ Nhị

Quan Lớn Đệ Nhị được thờ ở nhiều nơi, bất cứ đền điện nào có ban Công đồng thì trong hàng Ngũ Vị Tôn Quan

Ngoài ra một số Đền thờ Quan Lớn Đệ Nhị có thể kể tới như:

  • Đền Quan Giám ở trên huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn (là nơi quan trấn giữ miền Sơn Lâm)
  • Đền Quan ở Phố Cát, Thanh Hóa (là nơi quan giáng hạ dạo chơi).
  • Đền Quan Lớn Đệ Nhị tại Thái Bình gần đền Đồng Bằng (là nơi quan hội quân giúp Vua Cha Bát Hải chiến đấu chống ngoại xâm).

Tiệc Quan Lớn Đệ Nhị

Ngày khánh tiệc chính của Quan Lớn Đệ Nhị là vào ngày 10 tháng 11 Âm lịch (được cho là ngày hạ phàm của quan)

Văn Quan Lớn Đệ Nhị

Một số bản văn về Quan Lớn Đệ Nhị dưới đây được ban biên tập biên soạn gửi tới quý độc giả

Bản văn Quan Lớn Đệ Nhị số 1

Thỉnh mời Hoàng đế tinh quân
Hiệu ông đệ nhị thiên đình giáng sinh
Vốn xưa ông tại thiên đình
Đêm ngày chầu chực ở trong lâu đài

Số sinh số tử trên đời
Một tay biên chép chẳng sai số nào
Bách quan văn vũ nội tào
Khi ra bệ ngọc khi vào toà trương

Thông minh chính trực mọi đường
Kiên hào đỉnh túc chẳng nhường một ai
Thiên tào đệ nhị thứ hai
Thông tri tam giới mọi nơi xa gần

Phép ông hành vũ hành phong
Đâu đâu cũng đều phục tình làm tôi
Trời làm đại hạn nắng lôi
Cầu ông đảo vũ một thôi dần dần

Ông sai hà bá thuỷ thần
Tự nhiên nổi trận đùng đùng mưa sa
Điều hoà thiên hạ xướng ca
Nam nữ trẻ già sợ phép tôn quan

Lệnh truyền sai xuống thuỷ cung
Tự nhiên mưa gió mênh mông đồn điền
Hợp hoà thiên hạ dưới trên
Bờ nào bờ ấy nước chan đầy bờ

Dù ai đi sớm về khuya
Phong điều vũ thuận thái hoà nghỉ ngơi
Có phen thong thả ngồi chơi
Tuyển người số mực chép người số son

Vua cha nghe hết nguồn cơn
Ai làm nấy chịu chẳng còn có oan
Sai xuống hạ giới làm quan
Sinh vào quý tộc hiền lương đức lành

Vừa năm ất dậu thai sinh
Mồng ba tháng một đã sinh ra người
Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan

Song đường mừng rỡ yêu thương
Rằng nhà có phúc kẻ thương người vì
Chẳng ngờ Thượng Đế đến kì
Mồng ba tháng một,một khi giờ dần

Sắc sai hà bá thuỷ thần
Quần thiên đón rước chẳng nhầm một ai
Ngũ lôi hiệu lệnh tướng trời
Nhị thập bát tú mọi nơi trương toà

Đều thời vâng lệnh vua cha
Rước quan đệ nhị trên toà thượng thiên
Song đường thương nhớ chẳng yên
Sao ông nỡ để mối phiền dương gian

Sinh thành dưỡng dục núi non
Lấy ai khuya sớm thần hôn cho đành
Vốn xưa ông ở thiên đình
Con vua Thượng Đế giáng thần dương gian

Dù ai có lệnh kêu van
Khấn ông đệ nhị thọ khang yên lành
Thiên tư chính trực thông minh
Giáng Đền giáng phủ anh linh muôn phần

Chữ rằng Thánh giáng lưu ân
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường

Phú :

Nhác trông lên tòa vàng san sát,
Không đâu bằng Phố Cát Đồi Ngang.

Đá lô xô nước chảy làn làn,
Điều một thú cỏ hoa như vẽ.

Nhạn chiều hôm bay về lẻ tẻ,
Trên sườn non chim sẻ ríu ran.

Nuớc dưới khe tung tính tiếng đàn,
Trên đỉnh núi tùng reo điểm trống.

Có thơ rằng:

Ngần ngật Sòng Sơn kiêu dị lộc
Thanh thanh tri thủy chiếu trần tâm
Sơn tri cao hệ thủy chí thâm
Đây thực chốn non nhân nước trí.

Thượng phong tri thủy địa cốc lâm san
Nam thiên tri đệ nhất đền quan
Cảnh lạc thú thượng ngàn sơn cước

Thông minh chính trực,giúp nước phù đời
Quyền sơn lâm cai khắp mọi nơi
Vâng ngọc chỉ giáng thần Nam Việt

Anh hùng hào kiệt,độ khắp vạn dân
Sắc gia ban :Thượng đẳng tôn thần
Quyền giám sát,kiêm tri phủ viện
Nghe văn thỉnh luyện,giá ngự từ trung
Chữ “Sở cầu hữu cảm tất thông”
Hộ đệ tử đồng gia thời phú quý

Bản văn Quan Lớn Đệ Nhị số 2

Nhác trông lên biển đề choi chói
Dưới sân rồng nhang khói long lanh
Muôn hoa đua nhị trên cành
Sơn trang quan giám yến quỳnh bẻ bai

Quản tam giới quyền cai giám sát
Nương càn khôn lăng quát trong tay
Khâm thừa đế lệnh xưa nay
Quyền quan giám sát chức dày thiên cung

Sổ hội đồng một tay nắm giữ
Số trần gian sinh tử sót ai
Có phen ngự cảnh bồng lai
Rút dây tội phước cân người tội công

Có phen tới sân rồng chầu chực
Tấu đối xong nhật khắc tăng du
Có phen đằng giá Vân Cù
Mưa tuôn khói toả sấm ù dậy vang

Họp bàn loan đình Thần ca tụng
Chén rượu quỳnh Quan chú Quan anh
Cửa đền gió mát trăng thanh
Đàn ca sáo thổi dạo quanh trước lầu

Có phen ra tiếp hầu Lưu Quí
Ván cờ Tiên đấu trí một hai
Có phen thắng cảnh đua tài
Cờ Tiên một đấu thơ vài trăm thiên

Thơ Lý Bạch cờ tiên dám ví
Rượu lưu ly tửu thí coi chi
Ngắm xem hoa cúc hoa quỳ
Hoa lan hoa huệ tứ kì bách hoa

Vượn thượng uyển trăm hoa đua nở
Thú chơi hoa phải biết mùi hoa
Hoa lan hoa huệ hoa trà
So sánh có mai hoa là đệ nhất

Đã đẹp lại thơm hương cũng ngát
Màu trong so ngọc trản nào thua
Mặn mà mọi vẻ mọi ưa
Bách hoa đua nở bốn mùa ngát hương

Vang tiếng trống bốn phương sấm động
Cửa thiên môn lồng lộng uy quang
Đức ông chính ngự ngai vàng
Kiêm tri tam giới,Ngọc Hoàng sắc phong

Ban hiệu vị Quận Công Giám Sát
Quyền quản cai Phố Cát Đồi Ngang
Võ thời ví với Đức Quan
Văn thời sánh ví Mạnh Nhan thay là

Giáng sinh ngày mồng ba tháng một
Trung thiên thời chính ngọ xuất thân
Thung huyên mừng rỡ muôn phần
Sinh ra là đấng trung thần trượng phu

Tài văn võ cơ đồ bất nhị
Thượng đẳng thần Đệ nhị tôn quan
Dù ai hữu sự kêu van
Khấn Quan Đệ Nhị thọ khang yên lành

Nén nhang thơm tâm thành khấu thủ
Ứng pháp mầu đảo vũ thu vân
Chữ rằng thánh giáng lưu ân
Tôn Quan lưu phúc thiên xuân thọ trường

Bản văn Quan Lớn Đệ Nhị số 3

Sơn tiêu sơn động sơn trang
Đền thờ quan giám sát thượng ngàn tối linh
Muôn hoa đua nhị trên cành
Bộ nàng tha thướt yến quỳnh bẻ bai

Thượng ngàn giám sát quyền cai
Thông tri tam giới khâm sai đại thần
Có phen giá vũ đằng vân
Bát muôn công tử xa gần làm tôi

Trời làm đại hạn nắng nôi
Kiều quan đảo vũ một thôi giờ dần
Lệnh sai hà bá thuỷ thần
Tự nhiên dâng nước xoáy vần mưa sa

Điều thời thiên hạ xướng ca
Phong điều vũ thuận thái hoà thảnh thơi
Có phen thong thả ngự chơi
Tuyển người số mực chép người số son

Vua cha nghe hết nguồn cơn
Ai làm nấy chịu chẳng còn có oan
Lệnh truyền giáng hạ làm quan
Sinh vào quý tộc hiền lương đức lành

Vừa năm ất dậu thai sinh
Mồng ba tháng một đã sinh ra người
Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan

Song đường mừng rỡ yêu thương
Rằng nhà có phúc kẻ thương người vì
Chẳng ngờ Thượng Đế đến kì
Mồng ba tháng một,một khi giờ dần

Sắc sai hà bá thuỷ thần
Quần tiên đón rước chẳng nhầm một ai
Ngũ lôi hiệu lệnh tướng trời
Nhị thập bát tú mọi nơi trương toà

Đều thời vâng lệnh vua cha
Rước quan đệ nhị lên toà thượng thiên
Song đường thương nhớ chẳng yên
Sao ông nỡ để mối phiền dương gian

Sinh thành dưỡng dục núi non
Lấy ai khuya sớm thần hôn cho đành
Vốn xưa ông ở thiên đình
Con vua Thượng Đế giáng thần dương gian

Dù ai có lệnh kêu van
Khấn ông đệ nhị thọ khang yên lành
Thiên tư chính trực thông minh
Giáng Đền giáng phủ anh linh muôn phần

Chữ rằng Thánh giáng lưu ân
Đa tài đa lộc thiên xuân thọ trường​.

Văn khấn Quan Lớn Đệ Nhị

(Tham khảo)

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Nam mô A di đà phật !

Hương tử chúng con thành tâm

Kính lạy: Tam tòa Đức Thánh Mẫu

Kính lạy: Quan Lớn Đệ Nhị Tôn Quan, cộng đồng các quan.

Hôm nay là ngày …. nhằm tiết xuân/hạ/thu/đông thiên cát nhật

Tín chủ con là ………..

Ngụ tại:……………………………

Cùng toàn thể gia đình nhất tâm nhất lễ đến trước cửa Quan Lớn Đệ Nhị Tôn Quan cùng cộng đồng các quan,nhất tâm một lòng một dạ chấp tay kính lễ khấu đầu vọng bái. Nhất tâm nhất lễ kính dâng lên Quan Lớn Đệ Nhị Tôn Quan cúi xin ngài xét thương cứu độ cho gia chung chúng con già được mạnh khỏe, trẻ được bình an, cầu tài được tài, cầu lộc được lộc, cầu bình an được bình an. Cúi xin quan lớn che chở cho bốn mùa được bình an tứ thời được thanh tâm an lạc.

Nam mô a di đà phật! (3 lần)

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...