Hiển thị các bài đăng có nhãn Đền Tam phủ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đền Tam phủ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 3 tháng 9, 2018

Đền Ông Hoàng Mười

  “Bao giờ Hồng Lĩnh hết cây/ Sông Lam hết nước/ Đền ông đây mới hết lộc tài”, đó là câu ca mà người xứ Nghệ vẫn thường nói với nhau về đền Ông Hoàng Mười.

Đền ông Hoàng Mười là địa điểm du lịch tâm linh thu hút du khách thập phương. Đền ông Hoàng Mười là địa điểm du lịch tâm linh thu hút du khách thập phương.

Lại có câu ca khác về ông: "Ông Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An/ Về huyện Thiên Bản làm quan Phủ Giầy". Ông là Đức Thánh nổi tiếng linh thiêng trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu của Việt Nam. Sự linh thiêng của ngôi đền đã trở thành điểm du lịch tâm linh của du khách thập phương.

Những dị bản về thân thế ông Hoàng Mười

Đền Ông Hoàng Mười tọa lạc trên vùng “đắc địa” sơn thủy hữu tình, không khí trong lành, tĩnh lặng ở làng Xuân Am (xã Hưng Thịnh, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An). Mặt đền hướng về dòng Lam Giang như một dải lụa xanh trải rộng. Sau lưng có núi Dũng Quyết và quần thể di tích Phượng Hoàng Trung Đô - nơi vua Quang Trung chọn làm kinh đô.

Nhìn từ trên cao sẽ thấy khung cảnh mang dáng dấp hình tượng đầu Hạc do con sông Mộc, sông Vĩnh tạo thành. Vì vậy mà đền Ông Hoàng Mười trước đây có tên là “Mỏ Hạc linh từ” - hội tụ được những yếu tố văn hoá tâm linh và văn hoá du lịch.

Được xây dựng năm 1634 từ thời hậu Lê, với diện tích trên 1ha, Đền Ông Hoàng Mười Nghệ An mang dáng dấp kiến trúc thời Nguyễn. Công trình được chạm trổ công phu, các chi tiết long, lân, quy, phụng được chạm khắc sinh động, phản ánh được tư duy sáng tạo, sự tài hoa của nghệ nhân xứ Nghệ.

Đây là một công trình văn hóa tâm linh có quy mô bề thế, với nhiều công trình kiến trúc có giá trị, đúng với quy mô truyền thống; gồm có tam quan, tắc môn, đài trung thiên, lầu cô, lầu cậu, tòa hạ điện, trung điện, thượng điện, khu vực miếu mộ... Trong đền còn lưu giữ nhiều tài liệu, hiện vật quý, đặc biệt là 21 đạo sắc, bản thần tích chữ Hán và hệ thống tượng pháp có giá trị lịch sử và thẩm mỹ cao.

Đền Ông Hoàng Mười: Chốn du lịch tâm linh đặc sắc ảnh 1Ngoài thờ ông Hoàng Mười, đền còn thờ các vị phúc thần: Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung, Song Đồng Ngọc Nữ và hệ thống đạo Mẫu tứ phủ.

Theo nhân gian kể lại, ông Hoàng Mười là nhân vật huyền thoại, được giáng trần để giúp đời. Người dân xứ Nghệ cũng lưu truyền các truyền thuyết về lai lịch, thân thế, sự nghiệp của ông Hoàng Mười với những nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam.

Có người cho rằng ông Hoàng Mười là con của Vua cha Bát Hải Động Đình, vốn là thiên quan trên Đế Đình, thần tiên trong chốn Đào Nguyên. Theo lệnh thiên đình, ông giáng trần để giúp dân, giúp nước. Ông Hoàng Mười theo đó cũng là một “Đức Thánh Minh” trong hàng các ông quan Hoàng của tín ngưỡng Đạo Mẫu. Nhưng dẫu sao đó cũng là truyền thuyết.

Gắn với cuộc sống đời thường, các nhà nghiên cứu và dân gian vẫn cho rằng, ông Hoàng Mười chính là sự “Thánh hóa” một nhân vật anh hùng có thực trong đời sống cộng đồng. Về điều này, có nhiều dị bản khác nhau về thân thế của Ngài.

Theo như ở vùng Nghệ Tĩnh thì ông được coi là Lê Khôi, vị tướng tài, cháu ruột và là người theo Lê Lợi chinh chiến trong mười năm kháng chiến chống quân Minh, sau làm đến nguyên thần tam triều Lê gia, phong đến chức Khâm Sai Tiết Chế Thủy Lục Chư Dinh Hộ Vệ Thượng Tướng Quân.

Nhưng dị bản được lưu truyền nhiều nhất có lẽ là câu chuyện ông Hoàng Mười ở Nghệ An chính là Tướng quân Nguyễn Xí - một vị tướng giỏi thời vua Lê Thái Tổ (thế kỷ XV), có công lớn trong việc giúp vua dẹp giặc Minh, sau được giao trấn giữ đất Nghệ An, Hà Tĩnh....

Tại vùng đất xứ Nghệ, ông luôn chăm lo đời sống của nhân dân. Theo huyền tích dân gian, trong một lần đi thuyền trên sông, đến đoạn chân núi Hồng Lĩnh thì có đợt phong ba nổi lên, nhấn chìm thuyền của ông và ông đã hóa ngay trên sông Lam.

Trong khi mọi người đang thương tiếc cử hành tang lễ thì trời quang đãng, nổi áng mây vàng, bỗng thấy thi thể của ông nổi trên mặt nước nhẹ tựa như không, sắc mặt vẫn hồng hào tươi tắn như người đang nằm ngủ. Khi vào đến bờ, đột nhiên đất xung quanh ùn ùn bao bọc, che lấy di quan của ông. Lúc đó trên trời bỗng nổi mây ngũ sắc, kết thành hình xích mã và có các thiên binh thiên tướng xuống để rước ông về Trời.

Sau này khi hiển ứng, ông được giao cho trấn thủ đất Nghệ Tĩnh, ngự trong phủ Nghệ An. Nhân dân suy tôn ông là ông Hoàng Mười, không chỉ vì ông là con trai thứ mười của vua cha mà còn vì ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn. Không những xông pha chinh chiến nơi trận mạc, ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương.

Điểm du lịch văn hóa tâm linh

Là đức thánh nổi tiếng linh thiêng trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu nên ông Hoàng Mười được người dân ngưỡng mộ, đền thờ được dựng ở nhiều địa phương trong cả nước. Tuy nhiên, đền ông Hoàng Mười ở Nghệ An là điện thờ chính, còn những nơi khác chỉ là phối thờ.

Tại ngôi đền này, ngoài thờ chính là ông Hoàng Mười, còn thờ các vị phúc thần: Lê Khôi, Quận công Trịnh Trung, Song Đồng Ngọc Nữ và hệ thống đạo Mẫu tứ phủ, mà người đứng đầu là Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Ngôi đền cũng là một địa điểm hấp dẫn để mọi người có thể khám phá những nét văn hóa đặc sặc gắn với tín ngưỡng thờ Mẫu - một di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại đã được UNESCO công nhận.Năm 2002, Đền ông Hoàng Mười được tỉnh Nghệ An xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa.

Được xem là một trong sáu ngôi đền thiêng lớn nhất Nghệ An, mỗi năm đền đón hàng vạn người dân xứ Nghệ và du khách thập phương đến chiêm bái, cầu an, cầu lộc. Trong đó, nhộn nhịp nhất là hai kỳ lễ hội lớn: Lễ hội khai điểm vào rằm tháng 3 (âm lịch) và Lễ hội giỗ ông Hoàng Mười từ ngày 8/10 đến 11/10 (âm lịch). Trong đó, giỗ ông Hoàng Mười được coi là mùa tạ lễ quan trọng nhất.

Đền Ông Hoàng Mười Nghệ An cũng là một trong những nơi diễn ra Đại lễ cầu siêu các anh hùng liệt sỹ đã hy sinh trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm…

Trong những năm qua, đền được quan tâm đầu tư tôn tạo nên diện mạo ngày càng khang trang, phục vụ tốt hơn đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân. Nhất là vào mùa lễ hội, chính quyền tỉnh Nghệ An và huyện Hưng Nguyên đều chuẩn bị chu đáo. Khi diễn ra, phần lễ được tổ chức trang trọng, linh thiêng với đầy đủ các nội dung như: Lễ Khai quang, Yết cáo, Lễ rước, Đại tế, Lễ tạ.

Phần hội luôn được đổi mới với nhiều hoạt động thể thao hấp dẫn, sôi nổi, thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân cùng du khách, như: đua thuyền, bóng chuyền nam, nữ và các trò chơi dân gian…

Lễ hội đền Ông Hoàng Mười thực sự là dịp để tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống, giáo dục tình yêu quê hương, đất nước và đạo lý “uống nước nhớ nguồn”. Đồng thời cũng là dịp để du khách thập phương hành hương về với Nghệ An - vùng đất có truyền thống văn hóa, lịch sử, yêu nước và cách mạng, nơi đã sản sinh, nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài, khoa bảng, nhiều tấm gương kiên trung, nghĩa liệt mà cuộc đời, sự nghiệp của họ đã làm rạng ngời quê hương, đất nước.

Năm 2019, lễ hội Đền Hoàng Mườiđược công nhận là di sản văn hóa phi vật thể Quốc gia. Với sự linh thiêng được truyền tai và lễ hội quy mô đền ông Hoàng Mười đã trở thành điểm đến không thể bỏ qua trên bản đồ du lịch của mỗi du khách khi đến thăm xứ Nghệ.

Kim Long – Hạ Vân

Phủ Dày và Điển tích Thánh Mẫu Liễu Hạnh

Thánh Mẫu Liễu Hạnh - người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu và cũng chính là một trong Tứ bất tử của Việt Nam được nhiều người tôn thờ. Tại nước ta có rất nhiều nơi thờ cúng Thánh Mẫu, nhưng nơi trang nghiêm và long trọng bậc nhất đó chính là Phủ Dầy - Nam Định.


Phủ Dầy (tên gọi khác phủ Giầy, phủ Giày) là quần thể di tích tâm linh đạo Mẫu tại xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Trong đó, kiến trúc quan trọng nhất là đền thờ bà chúa Liễu Hạnh ngay sát chợ Viềng. Xưa kia, nơi đây được biết đến là ngôi đền lớn tại làng Kẻ Dầy. Cho đến khi Thánh Mẫu Liễu Hạnh được sắc phong là "Liễu Hạnh Công Chúa" thì được đổi tên thành Phủ Dầy. Do "Phủ" là danh từ chỉ định dinh cơ của các vương công, và Thánh Mẫu cũng là công chúa nên nơi thờ cũng sẽ được dùng chữ Phủ.

 

Thánh Mẫu Liễu Hạnh - người đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Hơn thế nữa còn có những tích khác cho tên gọi của nơi đây. Xuất phát từ truyền thuyết Bà Chúa Liễu Hạnh vì quá thương nhớ gia đình nên đã để lại một chiếc giày ở trần gian trước khi về thượng giới. Hay có huyền thoại: Vua đi ngang qua vùng này và nghỉ đêm ở quán hàng của bà chúa Liễu Hạnh, sau đó được tặng một đôi giày nên đã lập nơi thờ tự gọi là Phủ Giầy. Còn khi gọi là Phủ Dầy vì chính nơi này có món bánh dày nổi tiếng, lại có người cho rằng, Kẻ Giầy xuất phát từ nơi có gò đất nổi lên hình bánh dày trước cửa phủ.

Tất cả những câu chuyện dù chưa xác định rõ thực hư nhưng nó đã góp phần cho sự kì bí, cuốn hút về mối liên quan giữa Phủ Dầy và Thánh Mẫu Liễu Hạnh.

 

Quần thể phủ Dầy có hơn 20 công trình kiến trúc đặc sắc, trong đó có 3 công trình gắn liền chặt chẽ với cuộc đời thánh mẫu Liễu Hạnh


Quần thể Phủ Dầy có hơn 20 công trình kiến trúc đặc sắc, trong đó có 3 công trình gắn liền chặt chẽ với cuộc đời Thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ 2, đó là phủ Tiên Hương (phủ chính), phủ Vân Cát và lăng Chúa Liễu.

  Phủ Tiên Hương (phủ chính) là một công trình có kiến trúc đẹp được xây dựng từ thời Cảnh Trị nhà Lê (1663 – 1671), đã qua nhiều lần trùng tu. Phủ Tiên Hương có 19 toà với 81 gian lớn nhỏ, mặt phủ quay về phía tây nam nhìn về dãy núi Tiên Hương. Trước phủ có hồ tròn, rồi đến một sân rộng, sau đó là 3 toà nhà dàn hàng ngang hai tầng, tách mái: nhà bia, nhà trống, nhà chiêng là nơi đón khách tới hành hương. Một hồ bán nguyệt có lan can thấp bao quanh, có bình phong và hai cầu vượt bằng đá chạm khắc hình rồng vớt đường nét tinh xảo. Điện thờ chính của Phủ có 4 lớp thờ (4 cung): đệ nhất, đệ nhị, đệ tam, đệ tứ. Các cung đều được chạm khắc tinh vi các hình ảnh rồng, phượng, hổ…. Chính cung (cung đệ nhất) có một khám thờ khảm trai, bề thế và tinh xảo. 

 

Phủ Tiên Hương (phủ chính) là một công trình có kiến trúc đẹp được xây dựng từ Cảnh Trị thời Lê (1663 – 1671)

  + Phủ Vân Cát cách phủ Chính không xa và cũng có đền thờ Thánh Mẫu. Phủ được xây dựng trên khu đất rộng gần 1ha, mặt quay về hướng Tây Bắc. Phủ Vân Cát hiện nay có 7 toà với 30 gian lớn nhỏ. Phía trước là hồ bán nguyệt, giữa hồ là nhà thủy lâu, 3 gian, mái cong, sau hồ là hệ thống cửa Ngọ môn với 5 gác lầu. Phủ Vân Cát cũng có 4 cung như ở phủ Tiên Hương. Trung tâm là nơi thờ chúa Liễu, bên trái là chùa thờ Phật, bên phải là đền thờ Lý Nam Đế.
 

Phủ Vân Cát cách phủ Chính không xa và cũng có đền thờ Thánh Mẫu

  + Lăng Bà Chúa Liễu nằm bên cạnh phủ Chính được xây dựng vào năm 1938. Lăng được xây dựng toàn bộ bằng đá xanh, chạm trổ hoa văn đẹp tinh xảo, là khu vực hình chữ nhật với tổng diện tích 625m2, gồm có cửa vào lăng theo hướng đông tây, nam bắc. Các cửa đều có trụ cổng trên đắp hình búp sen. Giữa lăng là ngôi mộ khối bát giác, mỗi cạnh chừng 1m. Toàn lăng có tổng cộng 60 búp sen, tạo điểm ấn tượng riêng biệt cho lăng của vị thần chủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu.
 

Lăng Bà Chúa Liễu nằm bên cạnh phủ Chính được xây dựng vào năm 1938

>>> Đọc thêm: Chùa Tam Chúc Ở Nam Định Và Đại Thế "Tiền Lục Nhạc - Hậu Thất Tinh" 

Vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày diễn ra lễ hội Phủ Dầy nhộn nhịp cả vùng. Đây là lễ hội được đánh giá là một trong 10 lễ hội đầu năm độc đáo tại Việt Nam. Mục đích chính của lễ hội nhằm để tỏa lòng biết ơn với thánh mẫu Liễu Hạnh.

 

Vào ngày 3 tháng 3 âm lịch hàng năm là ngày diễn ra lễ hội Phủ Dầy nhộn nhịp cả vùng

Lễ hội phủ Dầy có ba nghi thức chính, bao gồm:

+ Lễ Rước Mẫu Thỉnh Kinh

+ Lễ Rước Đuốc

+ Lễ kéo chữ Hoa Trượng Hội

Bên cạnh ba lễ chính thì trong giai đoạn lễ hội Phủ Dầy diễn ra còn có các trò chơi truyền thống vô cùng thú vị như: thi hát văn, hát chèo, múa rối nước, đấu vật, đấu cờ người, thổi cơm thi... Đặc biệt, còn có nghi lễ hầu đồng diễn ra trong suốt thời gian lễ hội. Đây là một nghi thức không thể thiếu trong hoạt động tín ngưỡng dân gian và nhất là tín ngưỡng thờ Mẫu.

 

Nghi lễ hầu đồng diễn ra trong suốt thời gian lễ hội

>>> Đọc thêm: Những Cái Nhất Chỉ Có Tại Chùa Bái Đính - Ninh Bình 

Lễ hội diễn ra trong không khí tưng bừng, sôi nổi, từ trẻ đến già ai nấy cũng đều nô nức tham gia lễ hội. Nhằm bày tỏ lòng thành kính với Thánh Mẫu cũng như cầu mong những điều thuận lợi, may mắn cho một năm mới đầy phấn khởi. 

 

Lễ hội phủ Dầy diễn có các trò chơi truyền thống vô cùng thú vị như: thi hát văn, hát chèo, múa rối nước,...

Phủ Dầy ngoài nổi tiếng với các di tích gắn liền với Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì cảnh sắc non nước hữu tình của nơi đây cũng là một dấu ấn đẹp trong lòng du khách. Vừa chiêm bái Thánh Mẫu vừa thưởng ngoạn thiên nhiên sẽ là trải nghiệm tuyệt vời mà Phủ Dầy mang lại cho du khách vọng tín đạo Mẫu.

Đền Bồng Lai Ninh Bình thờ Cô Đôi Thượng Ngàn

Cô Đôi Thượng Ngàn là thánh cô nổi tiếng trong Tứ Phủ Thánh Cô. Đền thờ Cô ở mọi miền đất nước, nhưng nổi lên trên cả là hai ngôi đền cùng có tên Bồng Lai gắn với truyền thuyết sinh hóa của Cô.

 

Tượng Cô Đôi Thượng Ngàn tại đền Bồng Lai Ninh Bình

 

       Đền Bồng Lai thứ nhất tọa lạc thôn Bồng Lai, xã Văn Phương, Nho Quan, Ninh Bình  gắn với sự tích giáng sinh của Cô. Ngôi đền này có tên cổ là: Đền Thượng Bồng Lai Cổ Linh Từ. Đền Bồng Lai ở Cao Phong, Hòa Bình (Còn gọi là Đền Bồng Lai Thượng Cao Phong) là nơi gắn với sự tích Cô hóa và hiển thánh. 

 

Cảnh đền Cô Đôi Thượng Ngàn Nho Quan, Ninh Bình

Thăng trầm của Đền Cô Đôi Thượng Ngàn Ninh Bình

 

        Đền Bồng Lai Ninh Bình được xây dựng từ thời Trần và được trùng tu nhiều lần với nhiều thăng trầm.  Trước đây, nơi thờ Cô là một ngôi đền nhỏ, nhưng rất khang trang. Sau khi, đất nước được giải phóng khỏi ách thực dân Pháp, trong phòng trào chống mê tín dị đoan, đền đã bị phá dỡ, nay chỉ còn giữ lại được một lư hương và một sắc phong. Các đồ tế tự và các sắc phong khác đều bị đốt, thất lạc. Sau sự kiện đó, nhân dân đã bí mật dựng lên một ngôi miếu nhỏ để tiếp tục thờ phụng Cô bằng lô hương còn giữ được. Nhưng, ngôi miếu một lần nữa lại tiếp tục bị chính quyền cho đốt, cho ủi để phá bỏ nhưng không được. Cho đến tận 2006, khi nhà nước cởi mở về tôn giáo, Hội người cao tuổi của làng đã họp và quyết định mời thầy về để chủ trì tôn tạo. Dưới sự góp sức của bà con trong làng và thập phương cùng thầy chủ trì đến tận 2010, ngôi đền như ngày nay mới được hình thành. Năm 2015 cổng Tam quan mới được chính thức xây dựng.

      Đây là một ngôi đền thiêng, nên đã được nhiều triều đại phong kiến có sắc phong. Tuy nhiên, hiện nay sau nhiều biến cố ngôi đền chỉ còn giữ lại được một sắc phong. Đó là sắc phong của Vua Khải Định.

 

Tam Quan đền Bồng Lai Ninh Bình

Những câu chuyện ly kỳ về sự linh thiêng của Đền Cô Bồng Lai Ninh Bình

 

       Đây là một ngôi đền thiêng với nhiều câu chuyện kỳ bí. Nhiều câu chuyện cổ về sự linh thiêng của thời xưa cũng nhiều mà thời nay cũng lắm. Chuyện ngày xưa thì nhiều nhưng chỉ là chuyện truyền nhau nên tạm gác lại. Chúng ta chỉ điểm lại vài chuyện gần đây:

       Trong phong trào chống tín dị đoan vào những năm 60 của thế kỷ hai mươi, sau khi ngôi đền bị phá, có một gia đình có 11 người con, trong đó chỉ có 1 cậu con trai là út, đã vô tình chặt một cây duối to lâu đời ở phía sau ngôi đền để định làm củi đun. Khi chặt xong chưa kịp kéo về nhà thì cậu con trai khi đó mới bốn tuổi đã tự nhiên trúng gió. Gia đình vội vàng đưa đi bệnh viện nhưng không qua khỏi trước khi đến bệnh viện. Không biết đó có phải sự báo ứng của Cô hay không, hay chỉ là sự trùng hợp, nhưng từ đó đến nay hai cụ của cậu con trai đó đã gần 90 tuổi và các con vẫn thường xuyên đến lễ Cô như một sự hối hận.  Hiện nay hai cụ vẫn khỏe mạnh, các con đều trưởng thành ăn gia làm nên. Người ta bảo, có lỗi thì Cô trách, có tâm cô lại chứng.

      Sau khi ngôi đền cổ bị phá dỡ, các vật dụng, đòn tay, ngói... bị nhiều người lấy về nhà. Nhiều gia đình đó sau này lục đục, có người điên dại, có người chó dại cắn, có người lâm bệnh. Chuyện này có thể chỉ là ngẫu nhiên, không đáng nói. Nhưng có chuyện khó lý giải: Khi ngôi đền bị phá, bà con có dựng lại một ngôi miếu nhỏ. Ngôi miếu được lợp bằng cỏ gianh, chính quyền lại cho người đến đốt bỏ. Nhưng kỳ lạ thay lớp cỏ gianh là loại cỏ rất dễ cháy thế mà chỉ cháy một ít ở lớp dưới rồi tắt lịm.  Thời gian sau, hợp tác xã lại cho máy ủi đến để ủi phá ngôi miếu để mở rộng đất canh tác, nhưng gần chục lần máy ủi bị chết máy nên cũng đành phải bỏ cuộc. Người thì bảo đó là do máy ủi cũ mới thế, có người bảo chắc là Cô ngăn cản. Nhưng sự thực là vì thế mà ngôi miếu nhỏ không bị phá.

     Khi nhà nước cởi mở hoạt động tín ngưỡng, hội người cao tuổi đã họp để bàn về việc cải tạo lại  ngôi miếu. Hầu hết mọi người đều có nguyện vọng mời một thầy tâm đức làm thủ nhang để thuận lợi chủ trì công việc tôn tạo. Tuy nhiên, người thầy được đề xuất không phải là dân gốc địa phương. Vì thế, cuộc tranh luận đã trở nên gay gắt. Ngay chiều tối hôm đó, cụ có ý kiến gay gắt nhất là không muốn người không phải gốc của làng làm thủ nhang mà ủng hộ để hội  người cao tuổi tự tổ chức đã đột ngột từ giã cõi trần. Chiều hôm đó sau khi họp xong cụ đã ra vườn của nhà vô tình đưa chân vào dây điện sử dụng làm bẫy chống chuột bảo vệ thóc mới gieo để làm mạ và đã bị điện giật. Cũng có thể đây là chuyện ngẫu nhiên, nhưng mọi người bảo hay là cụ đã chống lại lệnh Cô để điều người Cô đã chọn về làm thủ nhang. Sau này, cũng chính nhờ người thầy tâm đức này, chúng ta mới được chiêm ngưỡng một ngôi đền đẹp như ngày nay.

 

Ban thờ Hội Đồng Tứ Phủ

Kiến trúc đền Bồng Lai Ninh Bình hiện nay

 

      Đền Cô hiện nay có kiến trúc theo kiểu chữ Nhất gồm 3 gian mái phẳng lợp ngói vảy. Phía trước tiền bái có ban thờ Quan Giám Sát, tiền bái thờ Hội đồng Tứ Phủ, hai bên thờ Đức Thánh Trần Triều, Chúa Sơn Trang. Gian thượng bái thờ Cô Bản Đền và Chúa Thượng Ngàn

     Trong cung cấm thờ tượng Cô Đôi Thượng Ngàn và thờ Nàng Ân, Nàng Ái là hai hầu cận của Cô. Phía sau cô là Tam Tòa Thánh Mẫu và Chầu Quỳnh, Chầu Quế hầu cận của các Thánh Mẫu.

     Ngôi đền tuy nhỏ, nằm cạnh một cánh đồng bát ngát, phía sau là một dãy núi trùng điệp của rừng quốc gia Cúc Phương. Nơi đây, thời xưa cụ Tả Oai - Một nhà phong thủy lỗi lạc đã đánh giá là một nơi địa linh. Cùng với 3 đền, chùa, miếu quanh vùng tạo thành một tứ trấn cho vùng đất linh thiêng này.

     Đền Bồng Lai Ninh Bình tuy không thực sự nguy nga đồ sộ nhưng đến đây chúng ta có một cảm giác có gì rất ấm cúng của không gian trong lành đầy năng lượng tâm linh. Ngôi đền tuy mới được xây dựng lại nhưng kiến trúc và bài trí vẫn theo lối kiến trúc cổ, tạo nên một sự gần gũi với sức mạnh cuốn hút kỳ lạ.  Đây là một chốn bồng lai tiên cảnh linh thiêng còn ít người biết đến. Có phải chăng chỉ những người tâm thành và có duyên với Cô, Cô mới cho đến nơi đây, dù rằng đường đến đền cô hiện nay cũng rất dễ đi, ô tô chạy thẳng vào tận sân đền.

 

        

Thần tích sự sinh hóa của Cô Đôi Thượng Ngàn

 

        Cô Đôi Thượng Ngàn vốn là Sơn Tinh Công Chúa con Vua Đế Thích trên Thiên Cung. Sau cô giáng sinh xuống đất Ninh Bình làm con gái một quan lang họ Hà, chúa đất người Mường ở vùng rừng núi Nho Quan. 

Ban thờ Quan Giám Sát

 

        Chuyện kể rằng: Vị quan lang họ Hà người Mường, ông nổi tiếng khắp vùng về nhân đức, phát tâm thiện nguyện, cứu giúp dân nghèo. Hai ông bà đã vào trạc ngũ tuần, nhưng vẫn chưa có một mụn con nào. Hai ông bà bèn lập đàn tế trời, cầu khẩn. Ngọc Hoàng trên thiên giới cảm kích tấm tình ông bà mới sai cô xuống hạ giới, đầu thai làm con ông bà để thưởng cho cái đức độ, tiết tháo của ông. 

        Năm cô lên bốn tuổi, gia định vị quan lang chuyển tới làm quan ở Huyện Cao Phong, châu Mai Đà, tỉnh Hưng Hóa.  Năm Cô mười hai tuổi đã xinh đẹp tuyệt trần da trắng, tóc mượt, mặt tròn, lưng ong thon thả. Khi Mẫu Thượng Ngàn thử lòng người trần gian, bèn hóa thành một bà lão đói khát, bệnh tật nằm lả ở gốc cây đa dưới chân núi Rồng. Bà nằm đó kêu rên từng tiếng khó nhọc, cầu mong sự giúp đỡ của mọi người qua lại, thế nhưng chẳng ai chịu ra tay cứu giúp bà. Đúng vừa lúc cô ra suối gánh nước thấy bà lão đáng thương, cô động lòng thương cảm bèn quỳ xuống vực bà ngồi dậy, cho bà uống nước. Bất chợt tự nhiên trời đất tối sầm, mây đen kéo tới, gió bụi cuốn lên mù mịt bà lão hiện thành Tiên Chúa Thượng Ngàn và nói với cô: "Ta là đức Diệu Tín Thiền Sư Lê Mại Đại Vương (tức Mẫu Thượng), thấy con là người ngoan ngoãn, hiền lành, đức độ. Kiếp trước con là tiên nữ trên tiên giới, nghe lệnh Ngọc Hoàng mà hạ phàm báo ân cha mẹ. Nay ta độ cho con thành tiên trở về bên hầu cận bên cạnh ta, để cứu giúp nhân gian". Đoạn Thánh Mẫu rút cây gậy khắc đầu rồng bên mình ra trao cho cô. Cô nhận cây gậy rồi trở về nhà, bốn ngày sau thì hóa.

 

Cung thờ Cô Bản Đền

 

      Sau này cô được Mẫu Thượng Ngàn cho học đạo phép để giúp dân. Rồi khi về thiên, cô được Mẫu Thượng Ngàn truyền cho vạn phép để cứu độ muôn dân. Tương truyền rằng Cô còn độ cho nhiều triều đại chống giặc ngoại xâm. 

      Lúc thanh nhàn cô về ngự cảnh sơn lâm núi rừng ở đất Ninh Bình quê nhà, trong ba gian đền mát, cô cùng các bạn tiên nữ ca hát vui thú trên dốc Sườn Bò (nay thuộc xã Văn Phương, Nho Quan). Có khi cô biến hiện ra người thiếu nữ xinh đẹp, luận đàm văn thơ cùng các bậc danh sĩ, tương truyền cô cũng rất giỏi văn thơ, làm biết bao kẻ phải mến phục. Cô Đôi cũng là tiên cô cai quản kho lộc Sơn Lâm Sơn Trang, người trần gian ai nhất tâm thì thường được Cô Đôi ban thưởng.

 

Vị trí hai Đền Bồng Lai trong tục thờ Cô đôi Thượng Ngàn

 

    Cô Đôi Thượng Ngàn được thờ ở nhiều nơi, và được phối thờ ở nhiều đền phủ, nhưng chỉ có hai nơi thờ chính cung cô là Đền Bồng Lai, Nho Quan, Ninh Bình và Đền Bồng Lai, Cao Phong Hòa Bình. Đền Bồng Lai Ninh Bình là nơi Cô được sinh thành. Đền Bồng Lai, Cao Phong, Hòa Bình là nơi cô hóa và hiển thánh.  

 

Đôi nét về Đền Bồng Lai Cao Phong

 

        Đền Bồng Lai Cao Phong cổ đã có từ lâu đời, trải qua thăng trầm của thời gian chỉ còn phế tích tại khu đất nơi xưa.Tháng 12 năm 2013 thanh đồng Thủ Nhang Trần Văn Hải cùng các con nhang đệ tử cùng tín chủ gần xa đã phát tâm công đức xây lại. Hiện đền còn giữ được một chiếc chuông cổ từ đời Vua Thành Thái. Đền còn giữ được hai đạo sắc phong của các đời vua. Đây là ngôi đền được tỉnh Hòa Bình quan tâm đặc biệt.

     Đền Bồng Lai Hòa Bình quả thực là một trong các ngôi đền thiêng, đẹp nhất Việt Nam hiện nay. Đây còn là một nơi du lịch tâm linh tuyệt vời giữa núi rừng Cao Phong đầy linh khí.


Đền Mẫu Thoải tại Lạng Sơn

Đền Mẫu Thoải Lạng Sơn hay còn biết đến là đền Cửa Đông – một trong bốn ngôi đền thiêng trấn giữ quanh Thành cổ Lạng Sơn. Đền nằm ngay cạnh sông Kỳ Cùng tọa lạc trên đường Hùng Vương, phường Chi Lăng, thành phố Lạng Sơn. Đền được xây dựng vào thế kỷ 18, thờ Mẫu Thoải, cùng với đó là Quan Lớn Đệ Tam người có công trấn giữ và bảo vệ nhân dân tại phía đông thành cổ Lạng Sơn xưa.

đền mẫu thoải cửa đông
Đền Mẫu Thoải Cửa Đông, Lạng Sơn

Đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Đến nay, đây là nơi lưu giữ nhiều kiến trúc nghệ thuật quý giá mang đậm tính lịch sử như 32 pho tượng thánh, 4 bức hoành phi, 6 câu đối, 2 chuông đại, 2 đôi lọ lộc bình,… 

Kiến trúc đền được xây theo kiểu hình chữ Nhị gồm gian Đại Bái và hậu cung. Khách hành hương tới đền thường đặt lễ và khấn xin thỉnh cầu các thánh tại gian đại bái này. Nơi đây cũng là nơi diễn ra các lễ hầu đồng, hầu giá vô cùng đặc sắc riêng có tại tín ngưỡng thờ Mẫu. 

Năm 2013 đền đã được Bộ Văn Hóa Thể thao và Du Lịch công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia nhằm tôn vinh những giá trị cả về tín ngưỡng tinh thần và vật chất nơi đền thiêng xứ Lạng.

Chủ Nhật, 3 tháng 9, 2017

Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn

Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn nằm ở thôn Việt Thắng, xã Hòa Lạc, Hữu LũngĐây là đền thờ Quan lớn Đệ Nhị, hay còn gọi là Quan Giám Sát, Quan Giám Sát Đệ Nhị, Quan Lớn Đệ Nhị Giám Sát..Ngôi đền chỉ nằm cách đường 1 khoảng 300 m, cách Hà Nội 110 km.


Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn
       Tương truyền rằng Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn ở huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn là nơi Quan trấn giữ miền Sơn Lâm còn Đền Quan Giám ở Phố Cát, Thanh Hóa là nơi Quan giáng hạ dạo chơi, Đền Quan Lớn Đệ Nhị ở Thái Bình là nơi ngài hiện thân phò vua Bát Hải Động Đình đánh giặc Thục. Quan Giám sát được giao quyền giám sát cai quản sơn lâm, nên Ngài còn được gọi là Quan Lớn Đệ Nhị Thượng Ngàn.

Lịch sử Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn

        Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn có từ rất xa xưa, nhưng chính thức từ bao giờ thì chưa rõ. Chỉ biết trước đây, ngôi đền còn rất đơn sơ, chủ yếu bằng tranh nứa lá, số cung thờ và tượng thờ ít ỏi. Sau nhiều lần tu bổ đền mới được khang trang như ngày nay.


        Đền Quan Giám Sát Lạng Sơn thuộc quyền quản lý cha truyền con nối của dòng họ Hoàng - các con cháu của thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh. Nơi đây cũng còn là nơi thờ của Hoàng Đình Kinh. Trước đây, Hoàng Đình Kinh được thờ ở ban Thành Hoàng trong đền. Đây là điều mà mọi người đi lễ rất ít để ý. Hiện nay, ban quản lý nhà đền đang cho xây Nhà Thờ Tổ bên phải của đền. Nhà Thờ Tổ chính là nơi thờ tổ của họ Hoàng và thờ Hoàng Đình Kinh.
       Chính vì vậy, có người cho rằng hiện thân của Quan Giám Sát chính là thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh. Đây là điều ít người biết.
      Thân thế thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh
      Năm 1962, ông tham gia cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn của Cai Vàng. Sau khi lực lượng của Cai Vàng bị giải tán, ông sang Vân Nam (Trung Quốc) chiêu tập binh mã, rồi đem bộ hạ về nước cát cứ vùng rặng núi miền thượng du sông Thương, Lạng Sơn để chống Pháp.

Nhà Thờ Tổ họ Hoàng thờ Hoàng Đình Kinh đang được xây dựng ở bên phải Đền Giám Sát
       Ông tổ chức đội quân rất có quy củ nên gây được thanh thế lớn. Các nghĩa quân chiếm cứ một vùng đất rất lớn ở Cao Bằng, Lạng Sơn. Quân Pháp nhiều lần tiến đánh nhưng đều bị thảm bại. Quân Pháp đổi chiến thuật, mua chuộc chia rẽ nghĩa quân. Năm 1887, quân Pháp mở cuộc tấn công lớn vào trung tâm nghĩa quân. Dựa vào địa thế hiểm trở, Cai Kinh đã đánh nhiều trận diệt nhiều sinh lực địch. Cuối năm 1887, Cai Hai, em ruột Cai Kinh, bị quân phản loạn ám sát. Quân Pháp cho đào mồ mả nhà Cai Kinh ném xuống sông Hóa.
       Nghĩa quân Cai Kinh bị nội gián chỉ đường liên tục bị đánh úp hao tổn nặng nề và dần dần tan rã. Cuối cùng Cai Kinh bị bắt ở gần biên giới Việt Trung. Năm 1888, Cai Kinh bị giặc Pháp hành quyết. Như vậy, cuộc khởi nghĩa của thủ lĩnh Hoàng Đình Kinh kéo dài 26 năm. Đây là một trang anh hùng của dòng họ Hoàng nơi đây, và cũng là niềm tự hào kiêu hãnh của vùng đất này. 

Kiến trúc thờ đền Quan Giám Sát Lạng Sơn

        Ngoài sân đền có cung thờ Cậu Bé Cây Mít. Gọi là Cậu bé Cây Mít có lẽ bởi cung cậu nằm kế bên cây mít cổ thụ lâu đời, chi chít quả. Giữa sân là một lư hương bắng đá.
Lầu Cậu Bé Cây Mít
        Đền có ba gian thờ: Tiền bái, Trung Bái và Đại Bái. Gian Tiền Bái gồm có: Chính giữa là Ban Công Đồng, bên phải là cung Chầu Đệ Nhị, bên trái là cung Sơn Trang.

Cung Chầu Đệ Nhị

   Gian Trung Bái chính giữ thờ Vua Cha Ngọc Hoàng cùng quan Nam Tào, Bắc Đẩu; bên phải thờ Đức Trần Triều; bên trái là cung Thành Hoàng. Chính cung này ngày trước thờ thủ lĩnh nghĩa quân Hoàng Đình Kinh.
Cung Thành Hoàng

       Gian Đại Bái chính giữa thờ Quan Lớn Giám Sát; bên phải là thờ Quan Hoàng Bẩy, Quan Hoàng Mười; bên trái thờ quan Hoàng Đôi, Quan Hoàng Bơ. Như vậy, theo cách thờ này có thể coi Tứ Phủ Quan Hoàng là hầu cận của Đức Quan Giám Sát.

 Thần tích Quan Giám Sát

      Quan Lớn Đệ Nhị là Quan đứng thứ hai trong Ngũ Vị Tôn Ông. Quan Lớn Đệ Nhị vốn là con trai thứ hai của Vua Cha Bát Hải Động Đình. Có truyền thuyết cho rằng Ông có hạ phàm đầu thai vào Hoàng Cung, nhưng hạ phàm triều nào và hạ phàm nơi đâu thì không thấy nói tới.
       Ông là người văn võ toàn tài, thông minh chính trực, được khắp muôn nơi ngưỡng mộ, các vương tôn công tử đều thuận tình đến làm học trò. Đến khi về chầu Thiên Đình, ông lại được giao quyền giám sát quản cai Sơn Lâm, Thượng Ngàn. Ông giáng thế ban phúc cho dân, khi dân chúng bị hạn hán, cầu đảo ông thì lập tức có mưa thuận gió hòa.

Cung Quan Giám Sát

      Quan Lớn Đệ Nhị hầu như không tìm thấy tư liệu về thần tích của Ngài. Căn cứ theo các văn hầu từ thời xưa để lại chúng ta có thể mường tượng về Ngài như sau:
         Ông vốn là ở cõi Thiên Đình, con vua Ngọc Hoàng được giáng xuống trần gian trong một gia đình quý tộc. Ngay từ thủa nhỏ Ngài đã giỏi văn thơ và nổi tiếng thông minh, không ngoan:
Tuổi vừa ba bốn đi chơi
Văn thi phú lục mọi tài khôn ngoan.
       Đến hạn về thiên, trời bỗng nổi mưa gió, bão bùng. Thủy thần đã đến rước Ngài đi. Về chốn Thiên Cung ông có nhiệm vụ "Quản tam giới quyền cai giám sát" chuyên lo về sổ sách sinh tử của cõi trần gian:
Sổ hội đồng một tay nắm giữ
Số trần gian sinh tử sót ai.
     Ông chính là vị thánh chuyên cân đong tội, công và điều chỉnh họa phước cho các sinh linh trong cõi trần thế.
Rút dây tội phước cân người tội công.
        Ông còn là một vị thánh văn võ song toàn:
Võ thời ví với Đức Quan
Văn thời sánh ví Mạnh Nhan thay là.
        Ông còn giỏi cờ, thi ca, phú họa:
Cờ Tiên một đấu thơ vài trăm thiên.
       Ông là một vị thánh anh minh, độ lượng, hết lòng cứu giúp cho mọi sự an khiên, bất hạnh của cõi dương gian:
Dù ai hữu sự kêu van
Khấn Quan Đệ Nhị thọ khang yên lành
        Đó là một vị thánh nổi tiêng trong tứ phủ bởi sự thông minh, chính trực, luôn một lòng độ cho nước cho dân:
Thông minh chính trực, giúp nước phù đời
Quyền sơn lâm cai khắp mọi nơi
Vâng ngọc chỉ giáng thần Nam Việt
Anh hùng hào kiệt, độ khắp vạn dân.

Quan Hoàng Đôi, Hoàng Bơ hầu cận bên Quan Giám Sát

        Quan Đệ Nhị Giám Sát là một trong ba vị quan lớn rất hay ngự về đồng. Khi ngự đồng, ông mặc áo xanh thêu rồng, hổ phù; làm lễ tấu hương, khai quang, chứng sớ và múa kiếm. Cũng như Quan Đệ Nhất, khi khai đàn mở phủ, người ta thỉnh Quan Đệ Nhị về chứng đàn Nhạc Phủ. Ngoài ra vào những dịp đại lễ như mở phủ khai đàn, tạ phủ…, trước ngày làm lễ, người ta thường thỉnh Quan Đệ Nhị về thanh tra giám sát đàn mã đền phủ.

Đền thờ Quan Hoàng Bơ

 Đền thờ Quan Hoàng Bơ ở đâu ?

Do có nhiều thần tích về Quan Hoàng Bơ nên khó xác định đâu là đền thờ chính của Quan Hoàng Bơ. Tuy nhiên, có lẽ có 4 nơi thờ ông Hoàng Bơ chính mà chúng ta có thể quan tâm:

  • Đền Quan Hoàng Ba – Phong Mục, Hà Trung, Thanh Hóa;
  • Đền Hưng Long tại Thái Bình là hai nơi có thần tích.
  • Một ngôi đền nữa thờ Quan Hoàng Bơ đó là đền Vạn Ngang – Đồ Sơn – Hải Phòng nơi ghi nhận sự hiển linh của Ngài.
  • Đền Cờn (nay là đền Quan Hoàng Chín) trước đây có người cho là đền chính của Ngài.

Ngoài ra, Quan Hoàng Bơ được hầu hết phối thờ trong các đền trong cung Tứ Phủ Quan Hoàng hoặc ban thờ riêng. Trong cung Tứ phủ Thánh Hoàng, Quan Hoàng Bơ thường phối thờ với Quan Hoàng Bảy và Quan Hoàng Mười.

Đền Cấm Tuyên Quang

Đền Cấm Tuyên Quang tọa lạc xóm 16, xã Tràng Đà, Tuyên Quang. Đền Cấm Tuyên Quang còn gọi là Đền Núi Cấm bởi ngôi đền nằm ngay dưới núi Cấm. Đây là một ngôi đền độc đáo, linh thiêng, cảnh đẹp sơn thủy hữu tình.

 

Đền Cấm Tuyên Quang

      Đền Cấm thờ Mẫu Thượng Ngàn và nơi đây cũng là ngôi đền độc đáo thờ Thần Xà. Đền Cấm nằm cách trung tâm thành phố Tuyên Quang chừng 4 km. Cùng với Đền Thượng (đền Núi Dùm) tạo thành một cụm di tích tâm linh linh thiêng cỡ nhất vùng Tuyên Quang. Đền được công nhận di tích lịch sử tâm linh cấp tỉnh năm 2007.

Lịch sử Đền Cấm Tuyên Quang

       Vào đầu thế kỷ 20, ngày đó, rừng rú hoang rậm, thú rừng thường xuyên tìm về quấy phá cuộc sống người dân. Có cụ Nguyễn Hữu Chu là người ở nơi đây thường xuyên vào chân núi Cấm khai phá, trồng trọt.

Thế nhưng, ruộng nương thì bị khỉ, lợn rừng phá; lợn, gà, dê, bò thì bị hổ vồ. Ông cụ Chu đã dựng lên một ngôi miếu nhỏ ở chân núi Cấm để thờ thần rừng, thần núi, cốt thú rừng đỡ phá phách. Ngôi miếu rất đơn sơ, chỉ gồm 4 cây tre và mấy tấm ván gỗ làm mái. Bên trong ngôi miếu có bát hương. Điều kỳ lạ, là từ khi ngôi miếu lập nên, thú rừng không về phá phách cuộc sống người dân ở chân núi Cấm nữa.

 

Thần Xà ở mỏm "Non bộ" tự nhiên tại Đền Cấm

 

 

         Ông cụ Chu làm nghề đông y, nên nhiều người bệnh tìm đến để được ông chẩn bệnh, bốc thuốc. Không rõ do ngôi miếu linh thiêng, hay tài bốc thuốc, mà nhiều người khỏi bệnh. Ngoài việc nhiều người tìm vào tài bốc thuốc của cụ Chu, thì nhiều người đồn thổi ngôi miếu ở chân núi Cấm linh thiêng, nên tìm đến cầu cúng rất đông.

 

        Vì ngôi miếu nhỏ nổi tiếng quá, nên người ta tìm đến hầu đồng. Tuy nhiên, cụ Chu là người ghét mê tín dị đoan, nên đã cấm tiệt những trò đồng bóng. Cụ vốn đặt tên ngôi miếu là Xâm Lĩnh Linh Từ, nhưng vì cấm trò đồng bóng, nên đổi tên ngôi miếu thành Miếu Cấm. Sau này, sau nhiều lần tu bổ ngôi miếu trở thành ngôi đền khang trang, tố hảo như hôm nay. Đền Cấm có tên từ đó.

 

Thần Xà trong Đền Cấm

        Điều kinh ngạc, là từ khi xuất hiện ngôi miếu nhỏ, thì rắn ở khắp nơi tìm về quả núi này. Rất nhiều loài rắn, loài trăn mò về ngôi miếu trú ngụ. Chúng không chỉ phơi nắng trên các mỏm đá, mà còn thường xuyên bò vào trong đền, quấn trên xà nhà. Chúng rất hiền lành, chưa tấn công ai bao giờ. Chúng cứ ở trong đền, mặc người vào ra, cúng bái, hành lễ. Nhiều khi, chúng ở trong đền vài tiếng, rồi mới lại thong thả bò vào núi và trốn vào hang sâu.

       Ngày trước, rắn về nhiều đến mức, có nhiều lần người đến miếu, thấy bát hương cứ lục ục, rồi những chiếc nón treo trên mái đền đong đưa, hóa ra rắn bò lổm ngổm ở trong.

      Cũng vì ngôi miếu có “xà thần”, nên khách thập phương tìm đến lễ và cúng tiến để miếu thờ rắn, đắp cả tượng rắn rất lớn.

      Cũng chính vì vậy, ngôi đền ngoài việc thờ Mẫu Thượng Ngàn thì cũng là nơi thờ Thần Xà.

Không gian kiến trúc Đền Cấm Tuyên Quang     

        Ngay trên tam cấp lên đền là hòn "non bộ " tự nhiên với ông Thàn Xà to lớn nửa trên mỏm đá, nửa trong hang thật uy linh. Ngay trong đền có một chiếc giếng nhỏ gọi là giếng Cô. Giếng Cô quanh năm không bao giờ cạn. Người dân ở đây truyền nhau rằng: Ai uống nước giếng Cô thì sẽ luôn khỏe mạnh.

        Gian giữa đền Cấm đặt tượng Bà chúa Thượng ngàn gọi là Lâm Cung Thánh Mẫu, phía trước có hai trụ biểu. Phía trên án thờ treo bức đại tự Linh Lâm Miếu bằng gỗ. Tiếp đến là bức cuốn thư với ba chữ “Tối linh từ”. Trước án đặt hai bức tượng ở thế đứng, kích thước như người thực, mặc võ phục, tay cầm kiếm. Đó là tượng Khuyến thiện và Trừ ác. Hai vị đứng đó như khuyên bảo khách thập phương hãy vứt bỏ tà tâm, giữ lòng thanh bạch trước khi bước vào cõi linh thiêng này.

       Bà Chúa Thượng ngàn tạc ở tư thế ngồi, đầu đội mũ tì lư, khoác áo choàng màu xanh của núi rừng. Khuôn mặt bà chúa toát lên vẻ vị tha, nhân ái. Phía dưới án là ban thờ ngũ hổ tướng quân, oai phong lẫm liệt, 

Những câu chuyện linh thiêng về Thần Xà ở Đền Cấm Tuyên Quang

       Đền Cấm Tuyên Quang quá nổi tiếng về các câu chuyện linh thiêng về thần thần xà (thần rắn). Leo hết bậc tam cấp để lên đền chúng ta bắt gặp ngày một vách núi. Dưới chân vách núi là mỏm đá nhô lên như hòn non bộ nhân tạo, án ngữ trước Lầu Cô Bơ, chúng ta đều phải dựng tóc gáy bởi con rắn khổng lồ, thân to bằng cái phích, bành mang với vẩy tua tủa sau đầu, mắt mở thao láo nhìn xuống phía chân núi. Con rắn bằng bê tông ấy được đắp giống hệt rắn thật, chui từ trong hõm núi ra, thân quấn quanh mấy khối đá, rồi dựng đầu lên. Nhiều người nhìn thấy “ông rắn” ấy, thì chắp tay, khom người, cúi đầu vái lia lịa, rồi khói hương nghi ngút dưới chân rắn. 

       Người ta đồn thổi rằng nhiều người hiếm muộn, chữa trị, bệnh viện chục năm không ăn thua, đến cầu “ngài”, thế mà mấy tháng sau đã thấy sắp lễ tạ ngài vì mang bầu. Hay cầu xin đỗ đại học, cầu phát đạt thì đều được. 

 

 

       Người dân ở đây bảo rằng, không chỉ “báo oán” những khách vãng lai qua đền xúc phạm “rắn thần”, mà ngay cả những người trong xóm 16, thuộc xã Tràng Đà cũng không ít lần mạo phạm bị “thần rắn” hành cho khổ sở. 

       Bà Tự, người dân trong xóm kể rằng, cách đây chừng chục năm, chồng bà lên núi Cấm lấy củi, thì gặp rắn lạ to bằng cái điếu cày, đầu đỏ, đuôi đỏ thẫm nằm phơi nắng trên mỏm đá. Chồng bà vốn chả mê tín, không tin chuyện “thần xà”, nên ông rút que củi dài, to bằng bắp tay vụt một nhát rất mạnh vào sống lưng “ngài”. 

       Bình thường, một cú vụt trúng sống lưng như thế, thì rắn to cỡ nào cũng gãy xương sống mà quằn quại, không chạy được, nhưng đằng này, con rắn lạ ấy chẳng hề gì. Mặc cho ông vụt tới tấp, con rắn vẫn bình tĩnh như không, chậm chạp trườn vào trong hốc đá và mất tích. 

       Điều kỳ dị, là đêm hôm ấy, chồng bà Tự không ngủ được, cứ mơ thấy rắn quấn quanh người. Sáng ra, toàn thân ông cứng đờ, không dậy nổi, cứ nằm bất động. Ông kêu lưng đau như gẫy xương, không thể cong lưng ngồi dậy. 

       Gia đình hãi quá, thuê xe đưa ông xuống bệnh viện tỉnh. Điều kỳ lạ là dù chiếu chụp kiểu gì cũng không phát hiện ra bệnh. Nghe chồng kể chuyện hôm trước lên núi gặp loài rắn mà dân cư trong vùng vẫn gọi là “ngựa ngài”, là “thần xà”, ông có dùng gậy đập cho ngài mấy cái, bà Tự mới hoảng hồn khóc lóc thở than. 

       Bà Tự tin rằng “thần xà” đã “báo oán”, nên ngay lập tức bà sắm lễ lớn, đến đền Cấm xin “ngài” thứ lỗi cho ông chồng có mắt mà không nhìn thấy thánh thần. Điều kỳ lạ, là cúng xong, thì nhận ngay được điện thoại của con cái, thông báo tự dưng chồng bà ngồi dậy được, đi lại như thường, không kêu đau lưng gì nữa.

     Còn rất nhiều những lời đồn rợn người liên quan đến loài rắn ở núi Cấm này. Lời đồn kinh dị nhất là cái chết của ông S., thợ bắt rắn, người xóm bên. Ông S. đã tóm được con rắn lạ có đầu đỏ, đuôi đỏ ở núi Cấm, liền cho vào bao xách ra chợ bán. Khách đến mua rắn, ông S. đổ con rắn ra. 

       Vừa trút con rắn ra, thì cả ông S. và người mua rắn đều táng đởm kinh hồn, khi con rắn ông bắt được chuyển màu đỏ lòm như máu từ đầu đến đuôi, đôi mắt như hòn than tóe lửa và cái mào mọc lên đỏ lòm như mào gà chọi. Mọi người đều tin con rắn đã hóa “thần xà”. 

        Cả ông S., người mua rắn và những người trong chợ nháo nhào, bỏ chạy. Lát sau, mọi người mò đến, thì không thấy con rắn đâu nữa. Sau hôm đó, ông S. ốm nặng, rồi thời gian sau thì qua đời.

       Bà Nguyễn Thị Báu, nhà ở chân núi Cấm thì kể chuyện về anh Cường, sinh năm 1973, người cạnh nhà bà. Anh này cũng chẳng biết sợ ma quỷ, thánh thần, nên mặc ai khuyên can, tóm ngay con rắn lạ ở đền Cấm, to bằng cổ tay. Anh này cho vào túi vải, treo lên dây thép phơi quần áo ở ngoài sân, để hôm sau làm thịt mời bạn bè trong xóm đến nhậu. 

        Hôm sau, khi mở túi vải, thì điều kinh dị xảy ra trước mắt: Con rắn không thấy đâu, mà chỉ có con lươn đen sì, to bằng cổ tay. Anh Cường hãi quá, liền thả con lươn xuống hồ, rồi ốm bẹp giường chiếu cả tháng. Người nhà đã mời thầy, làm lễ rất nhiều lần ở đền Cấm, nhưng anh Cường  vẫn không được tinh khôn, nhanh nhẹn như xưa.

Đặc sản của vùng Đền Cấm Tuyên Quang

        Du khách đến Đền Cấm Tuyên Quang không chỉ chiêm ngưỡng, ngắm cảnh đền với dải núi non trùng điệp mà còn rất thích mua những sản vật của địa phương như: Mật ong rừng, măng khô, nấm hương, phấn hoa, gà chọi, gà mèo, gà tre, lợn lửng, cua đá, cơm lam, gạo nương; các loại rượu thuốc ngâm rễ mật gấu, sâm cau, sâm cò khỉ, tầm gửi nghiến. Nơi đây, còn có một đặc sản mà không nơi nào có đó là bánh củ chuối rừng được làm từ tinh bột củ chuối rừng trộn thêm bột gạo nếp. Nhân bánh có đỗ xanh, cùi dừa nạo, thêm một ít thịt mỡ luộc tẩm đường phơi khô. Ăn bánh có vị chua, ngọt, thơm của chuối rừng, ngậy bùi của nhân bánh. Đây là một loại bánh rất được các du khách ưa thích.


NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...