Thứ Năm, 10 tháng 1, 2019

Sự tích Quan Hoàng Mười

 Sự tích Quan Hoàng Mười trấn thủ Nghệ An

Theo nhân gian kể lại Quan Hoàng Mười là nhân vật lịch sử có thật, ngài vâng lệnh vua cha giáng trần để giúp đời. Người dân xứ Nghệ cho đến tận ngày nay vẫn còn lưu truyền các truyền thuyết về lai lịch, thân thế, sự nghiệp của Quan Hoàng Mười với những nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam.

“Trấn thủ Nghệ An Quan Hoàng Mười ngài trấn thủ Nghệ An
Về huyện Thiên Bản ngài được làm quan đất Phủ Dầy”

 

Quan Hoàng Mười  

Sự tích Quan Hoàng Mười ba lần giáng thế

Theo truyền thuyết, Ông Hoàng Mười là con thứ mười của Đức Vua cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh, ông giáng trần để giúp dân. Ông Hoàng Mười không chỉ vì ông là con trai thứ mười mà ông là người tài đức vẹn toàn, văn võ song toàn (“mười” mang ý nghĩa tròn đầy, viên mãn). Không những là vị tướng xông pha chinh chiến nơi trận mạc, ông còn là người rất hào hoa phong nhã, giỏi thơ phú văn chương. Với truyền thuyết về vị tướng “Tài đức vẹn toàn”

Tướng quân Nguyễn Xí là hiện thân của Quan Hoàng Mười


Sự tích này kể rằng, Quang Hoàng Mười ngài giáng thế làm tướng quân Nguyễn Xí người có công xông pha chinh chiến giúp vua Lê Thánh Tông dẹp giặc nhà Minh. Tướng Nguyễn Xí được vua trọng dụng, giao cho trấn giữ vùng đất quê nhà Nghệ An, Hà Tĩnh.

nguyễn xí

Tại nơi đây ông luôn hết lòng vì dân, lo cho dân. Ông đã từng mở kho cứu trợ tiếp tế, sai quân đốn gỗ làm nhà cho dân khi vùng này gặp hoạn nạn thiên tai. Trong một lần đi thuyền trên sông, thuyền của ông bị nhấn chìm bởi một trận phong bão và ông đã hóa ngay trên dòng sông Lam. Dân chúng biết tin liền đến bên đôi bờ sông Lam mà tỏ lòng thương tiếc, người người khóc thương vị quan hết lòng vì dân

Lúc đưa tiễn ông, bầu trời đang cơn cuồng phong bão táp bỗng chốc tan biến, nổi áng mây vàng ngũ sắc, thi thể của ông nổi lên mặt nước, sắc mặt hồng hào như người nằm ngủ. Khi dạt vào bờ, đất xung quanh bỗng bao bọc lấy di quan. Cùng lúc, trên nền trời bỗng xuất hiện mây ngũ sắc, kết thành xích mã (có bản nói là xích điểu), người ta tin rằng đây chính là các thiên binh thiên tướng đang xuống để rước ông về trời.

Vua Lê Thánh Tông hết lòng thương tiếc vị tướng tài, liền truy tặng ông hàm Thái sư cường quốc công và sai lập đền thờ ở Thượng Xá. Cảm kích trước tấm lòng đức độ của tướng Nguyễn Xí, người dân vùng này tôn ông làm Ông Mười (còn gọi là Ông Mười Củi). Với ý nghĩa số “mười” mang sự vẹn toàn đầy đủ, viên mãn, cũng giống như ông Mười là người văn võ song toàn, tài đức trọn vẹn. Mặt khác, ông cũng là người con thứ Mười của Đức Vua Bát Hải Động Đình. Sau này ông lại được các triều đại phong kiến của Việt Nam tặng nhiều  sắc phong mỹ tự, hiện còn 21 sắc phong của ông được ban tặng đều được lưu giữ tại đền thờ ông.

Quan Hoàng Mười giáng thế làm tướng Lê Khôi

Một sự tích khác cho rằng, Quan Hoàng Mười  hiện thân làm tướng Lê Khôi một khai quốc công thần của nhà Lê Sơ cũng là tướng lĩnh trong cuộc chiến Lam Sơn lẫy lừng. Sử sách còn ghi tướng Lê Khôi là cháu ruột của vua Lê Lợi, ông được vua giao chức trấn thủ Hóa Châu. Vừa hết lòng trấn thủ, giúp vùng an yên ấm no, ông còn luôn đem quân tiếp ứng cho vua dẹp loạn quân Bế Khắc Thiệu, quân Chiêm Thành,… và lập được nhiều công lao to lớn.

Trận đánh ải Khả Lưu, Lê Khôi cùng Lê Sát xông lên trận tiền, bắt sống đô đốc Chu Kiệt, chém tướng Hoàng Thành. Ông lại cùng Phạm Vấn, Lê Sát phá giặc Minh ở thành Xương Giang, bắt sống Hoàng Phúc và Thôi Tụ, dẹp yên giặc Ngô, khôi phục Đông Đô.

  • Năm Thuận Thiên thứ nhất 1428, ông được phong Bảo Chính công thần nhập nội thiếu úy.
  • Năm Thuận Thiên thứ 2 khắc biển công thần, đứng hàng thứ 2 trong bảng Đình Thượng hầu thập tứ nhân.
  • Năm Thuận Thiên thứ ba 1430, Thái Tổ Lê Lợi sai Lê Khôi trấn giữ châu Thuận Hóa, vì người Man quấy phá. Lê Khôi vào đây, dỡ bỏ trạm gác, dạy bảo dân trồng dâu cày ruộng, ngày đêm tập luyện quân sĩ, giữ vững bờ cõi biên cương. Lấy nhân đức cai trị. Đánh nhiều trận, bắt nhiều giặc, nhưng ông đều đối đãi tử tế, tha cho về. Giặc Chiêm vừa sợ vừa mến đức ông. Cống sứ Chiêm ra Bắc, đều ghé thăm ông. Cũng năm đó, Bế Khắc Thiệu, Nông Đức Thái bạo loạn ở Thanh Lâm, Thái Nguyên, Lê Khôi đem quân hợp binh cùng Lê Lợi đánh, bắt bọn Thiệu. Vua Lê tặng kim phù và áo bào.
  • Năm Thuận Thiên thứ sáu, vua bệnh nặng, gọi Lê Khôi vào cung, bàn việc truyền ngôi cho Nguyên Long. Ông một lòng giúp Lê Thái Tông việc nước.
  • Năm Thiệu Bình thứ tư 1437, Lê Thái Tông cho ông làm Nhập nội tư mã, tham dự chính sự, coi việc quân ở đạo Hải Tây (Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình và Thuận Hóa).
  • Đến năm Thiệu Bình thứ sau 1439, Lê Khôi đánh Ai Lao, bắt sống tướng Man là Đạo Mông.
  • Năm Đại Bảo thứ nhất 1440, theo vua đánh Thuận Hóa.
  • Năm Đại Bảo thứ hai, ép tù trưởng Man Nghiễn ra hàng. Khuất phục Thuận Hóa. Công lao quá lớn, được phong Nhập nội đô đốc. Phạm việc nhỏ to, vua đều hỏi ông mới quyết định.
  • Sau này, vì việc riêng, mà ông bị cách chức. Ông về nhàn cư ở nhà, vui vầy với dân làng, không bất mãn oánh trách.

Lê Nhân Tông lên ngôi, coi ông là bậc nguyên thần cũ, nên năm Thái Hòa thứ nhất 1448, vời ông ra làm Nhập nội thiếu úy, coi việc phủ Nghệ An.

Sử chép, khi Lê Khôi quay về trấn Nghệ An, nhân dân đứng đón ông chật hai bên đường. Chỉ vài năm chính sự được công bằng, kiện cáo được xét xử thỏa đáng, mùa màng tốt tươi, dân yên vật thịnh, tiếng ca tụng ân đức của ông lan truyền từ thành thị đến làng xã ngõ vắng. Tính ông bình dị, gần dân nên được nhân dân cả vùng yêu mến tin tưởng.

  • Năm Thái Hòa thứ hai 1449, chúa Chiêm Thành là Bí Cái dốc hết lực lượng trong nước ra cướp thành Châu Hóa.
  • Năm Thái Hòa thứ ba lại đem quan đánh thành An Dung (thuộc Châu Hóa). Lê Nhân Tông sai quan tư đồ Lê Thận (Nguyễn Thận), đô đôc Lê Xí (Nguyễn Xí) đem quân đánh dẹp, sai Lê Khôi đem quân đi tăng viện. Chiêm Thành thua to phải bỏ chạy về nước. Vua phong Lê Khôi là Nhập nội tham dự việc quan trọng triều chính, nhưng vẫn giữ trấn Nghệ An.
  • Năm Thái Hòa thứ tư 1451, Lê Nhân Tông sai đô đốc Lê Khả (Trịnh Khả) đánh dẹp phương Nam, Lê Khôi đem quân bản bộ tiến trước. Khi đến đất địch, tướng giặc biết có quân Lê Khôi bè gọi sang hỏi: “Có phải Tư Mã đến đấy không?”. Ông bèn bỏ mũ trị ra cho giặc nhìn thấy mặt. Giặc đều xuống ngựa lạy xin hàng, nộp cống vật địa phương. Quân Lê Khôi đi đến đâu giặc tan đến đó. Ông đánh vào tận thành Đồ Bàn, bắt chúa Chiêm là Bí Cái, rồi mới thu quân về.

Trên đường về, Lê Khôi bị bệnh nặng và mất ở chân núi Long Ngâm, gần cửa biển Nam Giới, tức địa danh Hà Tĩnh, cách không xa Hưng Nguyên thuộc Nghệ An bây giờ. Quân sĩ thương xót, kêu khóc vang trời dậy đất, vua bỏ triều ba ngày, sai quan đến phúng điếu, tăng chức Nhập nội đô đốc.

Tướng quân Lê Khôi hiện thân của Quan Hoàng Mười

Tướng quân Lê Khôi hiện thân của Quan Hoàng Mười

Các tài liệu cổ cũng như dân gian ở Thọ Xuân còn ghi rõ, người dân đất Hoan Châu (Nghệ An) bây giờ thương tiếc và nhớ ân đức của ông nên lập miếu thờ phụng.

  • Lê Khôi là người làng Lam Sơn (Lương Giang, nay là làng Cham, thị trấn Lam Sơn, Thọ Xuân, Thanh Hóa). Ông là em Thái úy Lê Khang, con Hoàng Dụ Vương Lê Trừ, gọi Lê Thái Tổ là chú ruột.
  • Năm Quang Thuận thứ tư 1463, triều vua Lê Thánh Tông, con trai ông làm nhập nội Đại hành khiển tâu xin dựng bia ở Nam Giới (Hà Tĩnh giờ) để ghi sự tích. Vua sai thượng thư Nguyễn Như Đỗ soạn văn bia để khắc và được tấn phong Chiêu Trưng Vương.

Ở Nghệ Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay) có tới 7 ngôi đền thờ Quan Hoàng Mười (chỗ ông Lê Khôi khi mất), còn Hưng Thịnh (Hưng Nguyên, Nghệ An), thì có một ngôi đền rất to. Đền này xây dựng về sau, từ năm 1634, mãi gần 200 năm sau khi tướng Lê Khôi mất. Đền đổ nát, đến tận 1995 mới xây dựng lại, được thổi lên nhiều huyền thoại mới nổi tiếng như hiện nay.

Sự tích Quan Hoàng Mười giáng thế làm Lý Nhật Quang

Một dị bản giải thích cho sự tích Quan Hoàng Mười ghi chép rằng, ông hóa thân làm Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, là con trai thứ 8 của vua Lý Thái Tổ. Lý Nhật Quang là anh em cùng cha khác mẹ với vua Lý Thái Tông.

Từ nhỏ, Lý Nhật Quang nổi tiếng thông minh lỗi lạc, được vua cha dạy bảo nghiêm minh để trở thành rường cột nước nhà. Lớn lên, ông được cử vào châu Nghệ An lo việc thu thuế. Ông làm việc cần mẫn, thanh liêm, chính trực, được nhân dân tin tưởng và sau đó được phong chức tri châu Nghệ An. Nhờ có ông, cuộc sống ở Nghệ An đang hỗn loạn, phức tạp trở thành nơi có kỷ cương phép tắc, bách tính ổn định sinh sống.

Không những vậy, Lý Nhật Quang còn góp công không nhỏ trong việc xây dựng trại Bà Hòa. Nhờ có trại kiên cố vững chắc, vua và quân yên tâm chiến đấu và đã đánh chiếm được Chiêm Thành.

Được vua phong tước Vương, ông vẫn hết sức quan tâm đến cuộc sống người dân và sự phát triển kinh tế đất nước. Ông đã hướng dẫn nhân dân dệt lụa, dệt vải, làm nông,… và trở thành tổ sư của nhiều nghề thủ công nghiệp tại Nghệ An. Với con mắt của danh tướng có tầm nhìn chiến lược sâu sắc, ông đã trấn an lòng dân, khai đất khẩn hoang, tạo dựng các tiềm năng thế mạnh để giữ gìn và phát triển bờ cõi đất nước.

Lý Nhật Quang

Tượng thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang.

Khi mất, ông được nhân dân hai vùng Nghệ An, Hà Tĩnh lập đền thờ phụng ở rất nhiều nơi để bày tỏ công ơn, ghi dấu sự tích đền ông Hoàng Mười.

Trên đây, ban biên tập xin đưa ra ba sự tích về Quan Hoàng Mười, chúng tôi không bình luận cái nào đúng và cái nào sai, mà chỉ là tổng hợp lại những quan điểm hiện đang còn lưu truyền trong dân gian về vị thánh hoàng nổi tiếng lừng danh bậc nhất trong tứ phủ này.

Hầu giá Quan Hoàng Mười

Quan Hoàng Mười được coi là một trong hai vị Quan Hoàng hay về ngự đồng nhất, do ông là người được  Mẫu giao đi chấm lính nhận đồng. Những người sát căn ông Mười thì thường hào hoa phong nhã, văn võ song toàn đặc biệt là văn chương rất giỏi. Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo vàng có thêu rồng uốn lượn thành chữ Thọ. Đầu đội khăn xếp thắt lét vàng, kim cài lệch màu vàng kim. Ông ngự về tấu hương rồi khai quang. Sau đó, ông múa cờ chinh chiến, có khi lại ngâm thơ, cũng có lúc ông lại lấy dải lụa vàng như đang cùng người dân kéo lưới trên sông Lam, tượng trưng cho việc kéo tài lộc về cho bản đền. Giống như ông Bảy, ông Mười cũng cầm cây hèo cưỡi ngựa đi chấm đồng.

Quan Hoàng Mười

Khi lễ ông, người ta thường dâng đọi chè xanh, miếng trầu, thuốc lá là những đặc sản quê hương Nghệ An để ông ngự vui, cùng những điệu hò xứ Nghệ mượt mà say đắm dâng ông.

Thứ Ba, 8 tháng 1, 2019

Sự tích Quan Hoàng Bát

 Sự tích Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao đất Cao Bằng

Quan Hoàng Bát là vị thánh hoàng thứ tám trong hàng Thập Vị Thánh Hoàng trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Và người anh hùng Nùng Chí Cao đất Cao Bằng được cho là hiện thân của Quan Hoàng Bát, ông là vị anh hùng nổi tiếng được nhân dân trong vùng đặc biệt là người Tày Nùng phụng thờ do đã có công đuổi đánh quân Tống bảo vệ biên cương bờ cõi, sự bình yên cho nhân dân ta.

“Gương anh dũng ngàn xưa lưu để
Đất Cao Bằng tú khí chung linh
Trời Nam có Đức Thánh linh
Họ Nùng – Đệ Bát anh linh tuyệt vời”

Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Quan Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Sự tích Quang Hoàng Bát Nùng Chí Cao

Trong số Thập Vị Thánh Hoàng của Tứ phủ, Quan Hoàng Bát xếp hàng thứ tám, trước Quan Hoàng Chín Cờn và sau Quan Hoàng Bảy Bảo Hà, ngài là một nhân vật có thật trong lịch sử, là một vị tướng tài,  anh hùng dân tộc của dân tộc Tày – Nùng ở miền đất Cao Bằng thượng cổ.  Quan Hoàng Bát Nùng tên thật là Nùng Chí Cao, ngài sinh sống vào khoảng thế kỷ XI dưới thời vua Lý Thái Tông. Ông là con thủ lĩnh Nùng Tôn Phúc và bà A Nùng. Năm Tân Tỵ, vua Lý Thái Tông cử một tướng ẩn danh lên thuyết phục Nùng Trí Cao không theo nhà Tống. Ngài được người Tày ở vùng đất Quảng Nguyên, tức Cao Bằng ngày nay suy tôn làm thủ lĩnh. Sau này, ông còn được nhà Lý phong làm Thái Bảo tướng quân và giao trọng trách trấn giữ, bảo vệ bình an cho vùng đất biên cương Cao Bằng.

Trong cuộc đời chinh chiến của mình, vị tướng quân này đã lập nhiều chiến công hiển hách, lãnh đạo quân và dân Quảng Nguyên chống lại nhiều cuộc tấn công quy mô của giặc Tống.

Trong cuộc kháng chiến chống Tống lần 2 của quân và dân Đại Việt, thủ lĩnh Nùng Trí Cao đã phối hợp ăn ý với quân đội triều đình cúng tấn công đánh phủ đầu kho lương thảo của giặc ở Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu thuộc đất lưỡng Quảng, sau đó rút về chỉ huy quân và dân Cao Bằng lập phòng tuyến chống giặc ngoại xâm. Khi giặc Tống xâm phạm bờ cõi Đại Việt vào năm 1075, Ông Hoàng Bát Nùng đã anh dũng lãnh đạo quân dân địa phương chiến đầu ngăn bước tiến của địch, tạo thêm thời gian cho quân đội triều đình xây dựng phòng tuyến trên sông Như Nguyệt. Ông nhiều lần bị thương nặng nhưng cũng lập được nhiều chiến công vang dội, góp phần không nhỏ cùng quân và dân Đại Việt làm nên chiến thắng hiển hách vào mùa xuân năm 1077. Để tưởng nhớ công lao to lớn đó của ông, sau khi ông mất, người dân trong vùng đã lập đền thờ ông và suy tôn ông là Quan Hoàng.


Theo “Đại Việt sử kí toàn thư”, Nùng Trí Cao là con của ông Nùng Tôn Phúc – Thủ lĩnh châu Thảng Do.

  • Năm 1038, Nùng Tôn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Xương, xưng ” Chiêu Thánh hoàng đế”, lập nước Trường Sinh, phong vợ làm Minh Đức hoàng hậu, phong con cả Trí Thông làm Điền Nha Vương, đồng thời sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì.

  • Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đem quân đánh Nùng Tôn Phúc, bắt ông và con trai cả về kinh xử tử.Nùng Chí Cao cùng mẹ chạy đến động Lôi Hỏa, phía Tây Bắc Cao Bằng thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây Trung Quốc.

  • Năm 1041, hai mẹ con ông từ động Lôi Hỏa về chiếm Thảng Do, chiêu tập lực lượng, ;lập nước ĐẠI LỊCHTriều đình nhà Lý mang quân lên đánh, bắt Nùng Trí Cao về kinh đô nhưng không trị tội mà còn cho ông coi giữ châu Thảng Do, đồng thời cai quản thêm các động Lôi Hỏa, Bình An, châu Tư Lang và được phong làm châu mục Quảng Nguyên.

  • Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, phong cho ông tước Thái Bảo, một chức quan cao cấp thời Lý.

  • Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở đông Vật Ác ( thuộc đất Tống).

  • Năm 1050, Ông chiếm được động Vật Dương ( thuộc đất Tống), lập nước NAM THIÊN, đặt hiệu Cảnh Thụy.

  • Năm 1052, sau khi dâng biểu xin cống vua Tống không được, ông đã dẫn 5000 quân tiến đánh Ung Châu, sau đó xưng NHÂN HẬU HOÀNG ĐẾ, đỏi niên hiệu là KHẢI LỊCH, đặt quốc hiệu ĐẠI NAM.

  • Năm 1053, Địch Thanh viên tướng nhà Tống, dẫn quân đánh Nùng Trí Cao, nhà Lý sai Vũ Nhị tiếp ứng, nhưng do tình thế không cứu vãn nổi nên cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao chấm dứt.

Nhắc đến Ông Hoàng Bát Nùng, nhiều người thường bị nhầm lẫn với Ông Hoàng Bắc Quốc vì hai ông đều được gọi là Quan Hoàng Bát và đều là những vị tướng tài có thật trong lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, thực tế ông Hoàng Bắc Quốc lại là người đất Kinh Bắc và hoàn toàn không có liên hệ với ông Hoàng Bát Nùng.

Đền thờ của ông Hoàng Bắc Quốc cũng nằm tại Bắc Giang, cách xa đền ông Hoàng Bát Nùng tới tận trăm cây số. Vì thế du khách đi lễ đền Ông Hoàng Bát cần phân biệt rõ hai vị quan Hoàng này.

Hầu giá Quan Hoàng Bát Nùng

Quan Hoàng Bát Nùng là một trong các thánh hoàng rất ít khi về ngự đồng. Chỉ những người mang căn lục bộ mới có thể hầu Ngài. Khi về ngự đồng, ngài thường mặc y phục màu vàng, khăn mỏ rìu, mặc áo trấn thủ, đi ghệt chân ghệt tay, mạng chéo, làm lễ tấu hương, khai quang, múa đôi trùy đồng (múa cờ, kiếm) và múa võ. Khi ngự đồng ông cũng hút tẩu và thuốc cuốn.

Đền thờ Quan Hoàng Bát

Thái Bảo Nùng Chí Cao là một biểu tượng dũng tướng của Việt nam và là niềm tự hào của người dân Cao Bằng. Đền thờ chính thờ ngài là Đền Kỳ Sầm gần thị xã Cao Bằng. Ngài hầu Mẫu thượng đồng đẳng, làm việc lục bộ nội chính.

Tiệc Quan Hoàng Bát

Chính tiệc là ngày mùng 10 tháng Giêng hàng năm.

Bản văn Quan Hoàng Bát

Gương anh dũng ngàn xưa lưu để

Đất Cao Bằng tú khí chung linh

Trời nam có đức thánh linh

Họ Nùng đệ bát hùng anh tuyệt vời

Giận bạo chúa bao đời áp bức

Thù ngoại xâm Tống giặc cường hung

Thề rằng không độ trời chung,

Tuốt gươm quét sạch thù trong giặc ngoài.

Dù trăm trận mưa rơi sấm giật

Đôi trượng đồng dạy đất trời long

Bát Nùng nối nghiệp gia phong

Noi gương tiên tổ – họ Nùng – Trí Cao.

Ông Bát Nùng ra vào sinh tử

Trượng tung bay tuyết phủ hoa khai

Sá gì đạn lạc tên rơi

Trên đời hồ dễ mấy ai anh hào.

Thân bách chiến ra vào sinh tử

Đôi thần trùy nhẹ tựa hồng mao

Trần hoàn nhẹ gánh gian lao

Cõi trời do sổ Thiên Tào có tên.

Rước ông Bát về miền tiên giới

Đất Cao Bằng nhớ lại công ơn

Nhân dân thờ phụng khói hương

Nhớ người tráng sĩ hiên ngang anh hùng.

Thưở niên thiếu kiếm cung yên ngựa

Sinh vì đời, thác trợ muôn dân

Oai linh lẫm liệt thánh thần

Một lòng vì nước vì dân vì đời.

Gương anh khí sáng ngời muôn thuở

Trí hào hùng rạng rỡ non sông

Vinh quang thay giòng giống Lạc Hồng

Ngàn thu còn nhớ ông Bát Nùng Trí Cao

Thơ Lý Bạch anh hào ví sánh

Rượu Lưu Linh buồn tính vui say

Thừa nhàn bạch định thiên khai

Cờ thiên đế thích mộ tài tri âm

Kèn sáo trúc bổng trầm họ Lá

Lục huyền cầm Tử Bá nam xuân

Liên tâm ba chén tẩy trần

Thanh hương bình ngọc kỳ trân đượm mùi

Hồn quốc túy ấm lòng quân tử

Thú yên hà duyên nợ núi sông

Ngàn xưa tuyết nguyệt hoa phong

Thuốc lào Tiên Lãng ấm lòng thế gian

Khói thoảng ngát hương lan thú thảo

Thú phong lưu Vĩnh Bảo – Hải Đông

Sập vàng điếu ống thung dung

Ngự về trần thế đèn lồng kiệu hoa

Ai thành kính tại gia phụng sự

Thỉnh Ông về giá ngự đền trung

Xưa nay tắc tự hữu công

Dâng văn kính thỉnh Ông Bát Nùng Trí Cao.

Thứ Hai, 7 tháng 1, 2019

Sự tích Quan Hoàng Bảy

 7 Sự tích Quan Hoàng Bảy vị thánh hoàng lừng danh đất Bảo Hà

Quan Hoàng Bảy là vị thánh hoàng nổi tiếng lừng lẫy đất Bảo Hà, Vậy Quan Hoàng Bảy là ai ? sự tích Quan Hoàng Bảy như thế nào và đền chính thờ Quan Hoàng Bảy ở đâu ? hy vọng qua bài viết này giúp bạn đọc có thể tự trả lời cho các câu hỏi được quan tâm này.

Hoàng Nhắn ai lên đất bảo Hà
Nếm mùi phong nguyệt ấy là thần tiên
Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích
Hoàng Bảy Bải Hà thực đích trung quân
Sinh thời làm tướng trung thần
Mán nùng sơn trại muôn dân quy đầu

Văn khấn Quan Hoàng Bảy

Điện chính thờ Quan Hoàng Bảy trên Đền Bảo Hà


Quan Hoàng Bảy là một nhân vật có thật trong lịch sử Việt Nam, còn trong Tín ngưỡng thờ Mẫu, ông là một trong những vị thánh được người trong và ngoài đạo nhắc đến nhiều nhất. Trong Tứ phủ thánh Hoàng, ngài đứng thứ bảy sau Quan Hoàng Lục An Biên và đứng trước Quan Hoàng Tám Bát Nùng. Ngài là một trong mười vị Quan Hoàng trong Tứ phủ Quan Hoàng được nhân dân  tôn kính phụng thờ hầu khắp các đền điện phủ trong hệ thống thờ Mẫu đều có ban thờ Ngài.

  • Tên húy của ngài: Nguyễn Hoàng Bảy.
  • Sắc phong tước hiệu: Thượng Đẳng Thần.

Sự tích Quan Hoàng Bảy

Sự tích Quan Hoàng Bảy Bảo Hà có khá nhiều dị bản khác nhau. Tuy nhiên, theo các tài liệu có sự đáng tin thì sự tích về Quan Hoàng Bảy được kể lại như sau:

Quan Hoàng Bảy hay thường gọi là Ông Bảy Bảo Hà. Ông là con Đức Vua Cha Bát Hải Động Đình. Theo lệnh vua, ông giáng hạ phàm trần, trở thành con trai thứ bảy trong danh tộc họ Nguyễn, vào cuối thời Lê.  Vào triều Lê Cảnh Hưng (1740- 1786), tại vùng Bảo Hà và biên cương phía Bắc, có giặc Trung Quốc từ Vân Nam tràn sang cướp bóc, đốt phá. Triều đình bèn cử viên tướng thứ bảy họ Nguyễn chính là Quan Hoàng Bảy lên trấn thủ vùng Quy Hoá. Danh tướng họ Nguyễn đưa đội quân tiến dọc sông Thao đánh đuổi bọn giặc cỏ, giải phóng Khảu Bàn và xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn, cũng vì lý do này dân gian gọi ông là Quan Hoàng Bảy Bảo Hà.

Đối với giặc ngoại xâm, tướng Nguyễn Hoàng Bảy đánh đâu thắng đó, phá tan thế giặc ngoại xâm. Đối với nội bộ, tướng Nguyễn Hoàng Bảy đã có công thống nhất các thổ ti, tù trưởng, thổ hào quanh vùng đoàn kết quanh ông thanh một khối đoàn kết thống nhất. Sau đó thống lĩnh quân thủy và quân bộ tiến đánh giặc ở Lào Cai, giải phóng các châu thuộc phủ Quy Hoá (Yên Bái, Lào Cai ngày nay). Tại đây ông đã tổ chức các thổ ty, tù trưởng luyện tập binh sỹ… và trấn giữ vùng biên ải nơi Bảo Hà, Lào Cai. Tại đất Bảo Hà, ông thống lĩnh lục thủy, đánh đuổi quân giặc về vùng Vân Nam, sau đó ông chiêu dụ các thổ hào địa phương đón người Dao, người Thổ, người Nùng lên khẩn điền lập ấp.

Sự tích Quan Hoàng Bảy

 

Sau này trong một trận chiến đấu không cân sức, Ông Bảy bị giặc bắt, chúng tra khảo hành hạ dã man, nhưng ông vẫn một lòng kiên trung, quyết không đầu hàng, cuối cùng, không làm gì được, chúng sát hại ông rồi mang thi thể vứt xuống dòng sông Hồng. Kì lạ thay, di quan của ông dọc theo sông Hồng, trôi đến phà Trái Hút, Bảo Hà, Lào Cai thì dừng lại. Còn một điều kì lạ nữa là khi ông bị giặc sát hại, thì trời bỗng chuyển gió, mây vần vũ, kết lại thành hình thần mã (ngựa), từ thi thể ông phát ra một đạo hào quang, phi lên thân ngựa, đến Bảo Hà thì dừng lại, trời bỗng quang đãng, mây ngũ sắc kết thành hình tứ linh chầu hội.

Sau này khi hiển linh ông được giao quyền trấn giữ đất Lào Cai, ngự trong dinh Bảo Hà, đến lúc này ông nổi tiếng là một Ông Hoàng không chỉ giỏi kiếm cung mà còn hết mực hộ quốc an dân, ông luôn khuyên bảo nhân dân phải ăn ở có nhân có đức, tu dưỡng bản thân để lưu phúc cho con cháu. Triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị sắc tặng ông danh hiệu “Trấn An Hiển Liệt” và các triều vua nhà Nguyễn khác tôn ông danh hiệu: “Thần Vệ Quốc_ Quan Hoàng Bảy Bảo Hà”. Còn đồng bào các dân tộc Kinh, Tày, Dao… thì tôn thờ ông là vị nhân thần. Ông đi vào cõi tâm linh các dân tộc và hiện thân trong các lễ hội xuống đồng vào ngày Thìn tháng Giêng, hóa thánh vào hệ thống Thánh Hoàng trong Tín ngưỡng Thờ Mẫu.

Đền thờ Quan Hoàng Bảy ở đâu ?

Đền chính thờ Quan Hoàng Bảy là ngôi đền Bảo Hà được lập tại nơi năm xưa di hài của ông lưu lại, nằm ở chân đồi Cấm, bên bờ thượng lưu sông Hồng, ở bên bến phà Trái Hút, thuộc xã Bảo Hà, huyện Bảo Yên, tỉnh Lào Cai. Năm 1977, đền Bảo Hà được chứng nhận là di tích lịch sử quốc gia.

Đền Bảo Hà chính thờ Quan Hoàng Bảy

Cổng đền Quan Hoàng Bảy Bảo Hà

Ngôi đền cách thành phố Lào Cai 60km và cách ga xe lửa Bảo Hà 900m, hiện đã được tu sửa để thuận tiện cho du khách hành hương. Phong cảnh nơi đây vô cùng thơ mộng, bình yên, rừng núi bao quanh xanh một màu. Đối diện với dòng sông Hồng, lưng tựa vào núi, ngôi đền này được cho là mang phong thái ung dung đĩnh đạc của quan Hoàng Bảy. Cũng là di sản chứng minh cho sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc văn hóa truyền thống với quan cảnh thiên nhiên vĩ đại.

Bản văn Quan Hoàng Bảy

Văn Quan Hoàng Bảy

Gió nam thoảng đưa hương bay ngào ngạt

Bóng ác tà đã gác non tây

Trăng in mặt nước vơi đầy

Bảo Hà có tích xưa nay còn truyền

Quan Hoàng Bảy trần miền Băc địa

Hợp binh hùng lục thuỷ Thao Giang

Quân cơ mưu lược luận bàn

Doang trung thường có hai hoàng vào ra

Quan Hoàng Bẩy Bảo Hà chính vị

Cùng tướng công đệ nhị Hoàng Hai

Can qua dâu bể biến dời

Anh hùng xưa đã ra người cung tiên

Nhớ công đức lập đền phụng sự

Thổ, Mán, Nùng tiên nữ dâng hoa

Thú vui điếu khách bàn trà

Phong lưu thuốc cống Bảo Hà dâng ông

Hoàng hoa tửu khăn hồng gối xếp

Ngự tính tình phong nguyệt hoạ ca

Nhắn ai lên đất Bảo Hà

Nếm mùi phong nguyệt ấy là thần tiên

Cõi Bắc địa còn truyền cổ tích

Quan Bảo Hà thực đích trung quân

Sinh thời làm tướng trung thần

Tấc lòng yêu nước thương dân hãy còn

Dẫu bể cạn non mòn cũng quyết

Thử ra tài cho biết oai danh

Bao phen lẫm liệt tung hoành

Định an xã tắc đề binh cõi ngoài

Đất Lào Cai là nơi dụng võ

Quyết ra tay đội ngũ tiến công

Biên cương súng nổ đùng đùng

Sa trường sương núi máu sông chẳng nề

Đem quân về Thất Khê phòng thủ

Đền Bảo Hà lạc thú huê viên

Mãn tuần chiếu hạc hồi thiên

Tấm thân thoát lánh nghiệp duyên cõi trần

Bỗng một trận sầu vân ám kết

Hiện chân hình dạo Bắc hết Nam

Vui cùng nước biếc trăng ngàn

Tốt tươi quả lạ trăng vàng đìu hiu

Độ dân xã ngày Nghiêu tháng Thuấn

Cõi Việt Nam Bắc trấn oai danh

Từ bi cải dữ làm lành

Chọn ngươi nữ tú nam thanh chấm đồng

Kẻ xuôi ngược dưới sông trên bộ

Ai khẩn cầu tế độ thì qua

Hoàng về trắc giáng điện toà

Hộ trì đệ tử vinh hoa thọ trường.

Bài văn phú về Quan Hàng Bảy

Trần ai tri kỷ

Khách tài tình hồ dễ mấy ai hay

Cõi nhân sinh ba vạn sáu ngàn ngày

Say cũng luỵ không say thời cũng tục

Khoảng trời đất dọc ngang ngang dọc

Nợ tang bồng vay trả trả vay

Trái càn khôn hun đúc vững bền tay

Kho vô tận không xoay mà vẫn đủ

Giáo trăm trận xông pha ngoài huyệt hổ

Khách tài tình còn nợ thú phong lưu

Bóng hoa đăng soi tỏ mặt anh hào

Dẫu khanh tướng cũng siêu siêu mùi thế vị

Ai đã biết trần ai tri kỉ

Có hay lòng tráng sĩ lúc đêm xuân

Sáo vi vu gió đục mây vần

Cho bõ lúc tang bồng non với nước

Gió xuân thổi hương bay ngào ngạt

Vẳng cung đàn khúc hát gợi hồn xuân

Tài tình hỡi khách thi nhân

Vậy có thơ rằng:

Trù hoạch quân cơ tạm đắc nhàn

Nung gan thành sắt luyện tiên đan

Vi vu sáo trúc trời mây khói

Kỳ cục thâu canh đất nổi hoàng

Tuệ nhật sáng soi lòng dũng kiệt

Cương thường nặng gánh dạ sắt son

Ấy mùi phong nguyệt là thế thế

Giục ả phù dung Cuốc gọi hồn

Nẩy kiều:

Đượm mùi phong nguyệt nước non non

Đê mê quốc tuý quốc hồn xưa nay

Phù dung hồn hiện đau đây

Dường như ngọn cỏ cành cây la đà

Hay còn đắm nguyệt say hoa

Mau ra tiêm thuốc pha trà Quan Hoàng Bảy xơi

Ông bảy là:

Con Vua Thượng Đế Đức Vua cha

Giáng tại sơn lâm trấn Bảo Hà

Diện mạo hồng hào tươi vẻ ngọc

Dung nghi tươi tốt khác nào hoa

Khi vui cung kiếm khi đàn hát

Nhã thú nhã yên lúc ẩm trà

Say thơ say phú say câu hát

Say nợ tang bồng tỉnh lại say

Say tình non nước câu kim cổ

Say với non sông chuyện tháng ngày

Khách trần hồ dễ ai hay

Tang bồng hồ thỉ hẹn ngày vinh hoa

Tuyết trắng trăng trong ,hoa thơm gió mát

Mượn cung đàn câu hát,diễn hồn thơ

Man mác không gian ,hương đưa khói toả

Chí tang bồng muôn ngả khắp mọi nơi

Trong vũ trụ rộng không thế giới

Giấc mơ màng cõi ấy bồng lai

Cảnh u nhàn tùng cúc trúc mai

Nơi tĩnh mịch thú riêng người biết thú

Nâng chén rượu ngâm câu thơ cổ

Phải chăng hồn Lý, Đỗ còn đây

Rượu bồ đào,nhấp cạn chưa say

Trà long tỉnh ,hương bay thoang thoảng

Hát nhịp một:

Nhắn ai lên đất Bảo Hà

Nếm mùi phong nguyệt đó là cảnh tiên (Xáng u xáng u lưu phàn)

Hỏi rằng mói gặp đào nguyên

Yên hà mới gặp cảnh tiên nơi phàm trần (Xáng u xáng u lưu phàn)

Cỏ cây hoa lá tần ngần

Hoa đào năm ngoái mười phần kém xa (Xáng u xáng u lưu phàn)

Phàm trần phút gặp người tiên

Lạ thay Lưu,Nguyễn cũng duyên tình cờ (Xáng u xáng u lưu phàn)

Cung trăng ai hẹn bao giờ

Vì đường đi hái thuốc tình cờ gặp tiên (Xáng u xáng u lưu phàn)

Lâng lâng rũ sạch ba nghìn

Một ngày đệ tử cũng duyên nợ nhiều (Xáng u xáng u lưu phàn)

Giang tay mở khoá động đào

Rẽ mây cho tỏ lối vào Bảo Hà Sơn (Xáng u xáng u lưu phàn)

Non xanh ai đúc nên bầu

Trần gian ai dễ được hầu mà theo (Xáng u xáng u lưu phàn)

Xanh xanh toà đá phủ rêu

Ai người có phúc được theo Ông Bảy Bảo Hà (Xáng u xáng u lưu phàn)

Văn Thập nhị tiên nàng hầu Quan Hoàng Bảy

Lệnh sai thập nhị tiên nàng

Cô nào việc ấy sửa sang ra hầu

Cô Cả pha nước trà tàu

Sơn lâm vừa ý gật đầu ban khen

Cô Đôi dâng bộ khay đèn

Xe ngà tẩu sứ móc tiêm nạm vàng

Cô Ba dâng hộp thuốc ngang

Thế là vừa ý ông Hoàng sơn lâm

Cô Tư đốt đỉnh nhang trầm

Ngọn đèn khêu tỏ tay cầm móc tiêm

Cô Năm dâng hộp bánh nguyên

Kẹo lạc thuốc cống, cảnh tiên ai bì

Cô Sáu tính nết nhu mì

Dâng con tuấn mã, Hoàng đi chấm đồng

Cô Bảy nảy khúc đàn thông

Miệng ca tay múa năm cung nõn nà

Cô Tám dâng chiếc lược ngà

Hai tay chải chuốt thật là khéo thay

Cô Chín yểu điệu ai tày

Ngày ngày dâng một đôi giày hầu ông

Cô Mười thắt đáy lưng ong

Canh ba giờ tí lồng đèn bước ra

Cô Mười Một quạt nước pha trà

Ấm tiên bình ngọc,tay ngà dâng lên

Cô Mười Hai múa lượn sênh tiền

Mười hai tố nữ đôi bên rõ ràng về trắc giáng bản đền

Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường

Tiệc Quan Hoàng Bảy

Ngày tiệc chính của Quan Hoàng Bảy là ngày 17/7 âm lịch. Vào ngày này và nhất là dịp tháng 7 âm lịch, ở đền Bảo Hà luôn tập nập du khách thập phương đến dâng hương để lễ Quan Hoàng Bảy Bảo Hà cầu tài cầu lộc.

Hầu giá Quan Hoàng Bảy

Quan Hoàng Bảy là vị thánh hoàng thường hay ngự về đồng nhất trong Thập vị Quan Hoàng, cũng bởi vì trong hàng Tứ Phủ Quan Hoàng Bảy được Mẫu giao chấm lính nhận đồng.

Khi ngự về đồng, ông thường mặc áo lam hoặc tím chàm (thêu rồng kết uốn thành hình chữ thọ), đầu đội khăn xếp có thắt lét lam, cài chiếc kim lệch màu ngọc thạch. Ông ngự về tấu hương, khai quang rồi cầm đôi hèo, cưỡi ngựa đi chấm đồng.

Hầu giá Quan Hoàng Bảy

Đến giá Quan Bảy về ngự, nếu ông ném cây hèo vào người nào thì coi như ông đã chấm đồng người đó. Lúc ông giá ngự, thường dâng ông ba tuần trà tàu rồi mời thuốc lá nghe văn, ban tài phát lộc cho thanh đồng đệ tử rồi xe giá hồi cung.

Sự thật về tiếng oan Quan Hoàng Bảy ăn chơi

Ngay nay có nhiều người xin lô đề trong giá ông Hoàng Bảy, thậm chí đến đền Bảo Hà cúng lễ để xin số đề, hay dâng cả thuốc phiện đèn bàn trong lễ ông. Điều này là hoàn toàn sai trái, thế nhân hãy thanh tỉnh nhớ lấy lời dặn của Ông:

Chữ cương thường treo cao giá ngọc
Chữ công dung tứ đức khuyên di

Hay:

Ai mất chữ Tâm thời tội phải mang
Lưới trời ở khắp bốn phương
Hại nhân nhân hại khôn đường thoát thân

Mời bạn đọc xem thêm bài viết: Hãy trả lại sự linh thiêng cho Quan Hoàng Bảy Bảo Hà để hiểu rõ về vấn đề này.

 

Chủ Nhật, 6 tháng 1, 2019

TỨ PHỦ THÁNH CẬU

 

TỨ PHỦ THÁNH CẬU

        Trong Đạo Mẫu, Tứ Phủ Thánh Cậu đứng sau Ngũ Vị Tôn Quan, Tứ Phủ Thánh Chầu, Tứ Phủ Quan Hoàng, Tứ Phủ Thánh Cô.
      Tứ Phủ Thánh Cậu gồm có 12 Thánh Cậu. Các Thánh Cậu là các hình tượng nam thiếu niên, nhanh nhẹ, xông xáo, mạnh mẽ, hiếu động và thường là hầu cận của một vị thánh quan trong Tứ Phủ Quan Hoàng. Thân thế, thần tích về các Thánh Cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu hầu như không có tài liệu ghi chép lại.
       Tứ Phủ Thánh Cậu về quy định thì có 12 Cậu, nhưng việc xác định các cậu được thờ chính ở những đền nào thì không cụ thể. Thường thì các cậu ngự tại Lầu Cậu tại các đền phủ. Trong lầu cậu thường có thể thờ tượng một cậu hay nhiều cậu. Cậu hầu ai trong đền thì hầu như không có sự tích như các cô bé. Chính thế, cậu nào ngự ở đền phủ nào thì được gọi là cậu bản đền của đền phủ đó.
       Đền thờ riêng của các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu hầu như rất ít so với đền thờ các cô trong Tứ Phủ Thánh Cô. Trong Đạo Mẫu, hình tượng các cậu mờ nhạt hơn rất nhiều so với các cô. Thậm chí khi hầu đồng, các cô vẫn được hầu nhiều hơn, các cậu luôn hầu sau các cô. Cũng có thể việc này là do ảnh hưởng văn hóa Mẫu hệ từ thời thượng cổ.
        Các cậu thường hầu cận các Quan Hoàng trong Tứ Phủ Quan Hoàng và khi đó tên các cậu được đi theo tên ngôi thứ của các Quan Hoàng và chính là Cậu Bản Đền. Ví dụ: Đền Quan Hoàng Bơ Phủ có Cậu Hoàng Bơ Phủ. Tuy nhiên, tại các đền thờ Mẫu, thờ Cô, thờ Chầu hay thờ các Quan Lớn trong Ngũ Vị Tôn Ông thì Lầu Cậu thường là thờ Cậu Bé Bản Đền.
       Các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu thường được coi là các Hoàng Tử nơi chốn thiên cung được Vua Cha Ngọc Hoàng cử xuống hạ giới để giúp dân an cư, lạc nghiệp hay dẹp giặc và được đón về trời khi còn tuổi thiếu niên, hoặc được đưa xuống hầu cận các vị quan. Nhưng đôi khi các cậu được coi là các cậu hầu cận một vị quan nào đó, hay nổi danh vì giúp dân, giúp nước chứ không cứ là Hoàng Tử chốn thiên cung được phái xuống. Ví dụ: Cậu bé Trường Sinh nơi Đền Cậu Tây Thiên.
      Các cậu thường hay giáng đồng là các cậu: Cậu Hoàng Cả, cậu Hoàng Đôi, Cậu Hoàng Bơ, Cậu Hoàng Tư, Cậu Bé. Còn các cậu khác hầu như không giáng đồng.

Hầu giá Cậu Hoàng
        Trang phục của các Cậu khi giáng hầu thường giống nhau: Áo cánh, đầu vấn khăn đầu rìu, chân quấn xà cạp, đi hài thêu hoa...và chỉ khác nhau ở mầu áo theo ngôi vị mà thôi. Trong diễn xướng, các cậu thường múa hèo, múa gậy, bắn cung, nhảy ngựa...và hò reo vang lừng. Riêng Cậu Bơ Thoải thì có chèo đò, hay giăng lưới bắt cá.
         Các Thánh Cậu là ngôi thấp nhất trong Tứ Phủ, và cũng rất ít người biết đến các Cậu. Rất ít các cậu trong Tứ Phủ Thánh Cậu được thờ riêng một đền phủ.
       Nổi tiếng nhất trong Tứ Phủ Thánh Cậu có lẽ chỉ có: Cậu bé Đồi Ngang ở Phủ Đồi Ngang. Cậu bé Đồi Ngang được coi là con của Thánh Mẫu Liễu Hạnh khi Mẫu giang sinh lần thứ ba. Ngoài ra, có thể kể đến Cậu bé Lệch ở Cung Mẫu tại đền Trần Triều ở khu du lịch tâm linh đền Suối Mỡ.

Sự tích Quan Hoàng Lục

Sự tích Quan Hoàng Lục 

Quan Hoàng Lục là vị quan hoàng thứ sáu thuộc hàng Thập Vị Quan Hoàng, ngài là con trai thứ sáu của vua Cha Bát Hải Động Đình. Sự tích về Quan Hoàng Lục không được lưu lại chính xác, một trong số đó câu chuyện về An Biên Tướng Quân được cho là hiện thân của Quan Hoàng Lục là được lưu truyền rộng rãi hơn cả.

Trong hàng tứ phủ Quan Hoàng, Quan Hoàng Lục ngài đứng sau Quan Hoàng Năm và đứng trước Quan Hoàng Bảy

 Sự tích Quan Hoàng Lục và câu chuyện về An Biên tướng quân

Nếu Thái Bảo Bát Nùng (Quan Hoàng Tám Nùng Chí Cao) được xem là tù trưởng ông vua người Nùng, thì An Biên Tướng quân hiện thân của Quan Hoàng Lục lại được xem là tù trưởng ông vua của người Tày cai quản vùng đất Cao Bằng ngày nay.

Tương truyền Quan Hoàng Lục giáng sinh ngày 10/8/1038 tại xã Lũng Đính, châu Thượng Lang (nay là xã Đình Phong, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trong một gia đình mấy đời làm tù trưởng. Đến măm 18 tuổi, ngài được cử làm thổ tù vì Quan Hoàng Lục là người khảng khái, trọng nghĩa, khinh tài luôn đem tài sản chia cho dân nghèo, mọi người trong vùng đều quí mến ông. Năm 1053 (thời vua Lý Thái Tông), trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược lần thứ nhất, Hoàng Lục phối hợp với tướng quân Nùng Chí Cao chủ động đem quân đánh vào đất Tống, đột phá các châu: Châu Quý, châu Uy, châu Khang, châu Đăng, châu Ngô, châu Đoan, châu Hình… gây thiệt hại lớn cho quân Tống.

Quân của Hoàng Lục và Nùng Chí Cao đi đến đâu đều được nhân dân ủng hộ. Khi rút về, Hoàng Lục tiếp tục chuẩn bị lương thực, lực lượng để đối phó với quân Tống.

Đến năm 1075 (thời vua Lý Nhân Tông), quân Tống tiến hành xâm lược Đại Việt lần thứ 2 với mục tiêu phá vỡ tuyến phòng thủ ở Quảng Nguyên. Viên tướng của nhà Tống lúc ấy tên là Quách Quỳ đánh giá: “Quảng Nguyên là cổ họng của Giao Chỉ, có binh pháp mạnh đóng ở đó. Nếu ta không đánh lấy thì khi ta đi sâu vào đất chúng, quân ta sẽ bị đánh cả ở mặt trước và mặt sau”. Biết trước âm mưu xâm lược nước Đại Việt của nhà Tống, vua Lý Nhân Tông với chiến thuật “Tiên pháp chế nhân” đã cử Thái uý Lý Thường Kiệt xuất quân tiến đánh, đốt phá kho tàng của quân Tống ở vùng châu Khâm, châu Liêm nhằm làm giảm ý chí xâm lược của nhà Tống.

Nhận được mật lệnh của Thái uý Lý Thường Kiệt, Hoàng Lục cùng Tôn Đản, Nùng Chí Xuân trở thành bộ tướng dũng mãnh của Lý Thường Kiệt tung hoành ngang dọc trên đất Tống. Phá tan âm mưu xâm lược nước Đại Việt của nhà Tống, Lý Thường Kiệt ra lệnh rút quân về nước xây dựng phòng tuyến sông Như Nguyệt và tin cậy giao cho Hoàng Lục trấn giữ vùng Đông Bắc từ Quảng Uyên đến Phục Hoà. Với nhận định của Quách Quỳ thì trận đánh ở Quảng Nguyên có tính chất quyết định. Trấn giữ vùng Quảng Nguyên lúc này là Lưu Kỷ – một viên tướng có kinh nghiệm đánh vùng rừng núi của nhà Lý với 5.000 binh mã. Khi quân Tống dưới sự chỉ huy của Phó tướng Yên Đạt ồ ạt tấn công vào Quảng Nguyên đã gặp phải sự đánh trả quyết liệt của quân Hoàng Lục và Lưu Kỷ. Theo lưu truyền trong dân gian thì chính khu vực đền thờ hiện nay là nơi Hoàng Lục lập trận địa để chặn bước tiến của quân xâm lược Tống. Dấu tích còn sót lại đến ngày nay là những ụ, thành đất hình chữ nhật, hình xoáy trôn ốc nằm rải rác dọc hai bên bờ sông Quây Sơn, cách đền khoảng 1 km.

Đền thờ Quan Hoàng Lục  An Biên Tướng Quân

Quan Hoàng Lục hóa ngày 22/4/1088 tại Phục Hoà, quân sĩ và nhân dân đã tổ chức đưa hài cốt ông về chôn cất tại quê hương Lũng Đính. Với những công lao to lớn trong việc gìn giữ biên cương, Hoàng Lục được phong An Biên tướng quân. Để tưởng nhớ công lao của ông, nhân dân vùng Lũng Đính đã xây dựng đền thờ ông trên núi Đoỏng Lình. Đền thờ Hoàng Lục đã được xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh vào năm 2004.

An Biên Tướng Quân Quan Hoàng Lục

Đền thờ An Biên Tướng Quân Quan Hoàng Lục

Quan Hoàng Lục là một tướng giỏi có công lao to lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, được triều đình nhà Lý phong chức An Biên tướng quân, thống lĩnh quân mã để bảo vệ biên cương phía Bắc. Sau khi ông mất, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ để tưởng nhớ công lao của ông. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, việc xác định đền thờ Hoàng Lục được khởi dựng từ khi nào vẫn chưa được làm sáng tỏ, song kiến trúc còn lại của ngôi đền là hai gian nhà cấp 4 (kiểu chữ nhị) khá rộng với diện tích khoảng 100 m, vì kèo quá giang bằng gỗ, mái lập ngói âm dương, cửa đền quay ra hướng Nam, phía trên điện thờ có hoành phi ghi: “Tư cách chi thần“.

Hai bên có hai câu đối:

“Thần uy nghiêm dực hành đất Tống
Thánh đức anh linh phổ Việt Thanh”.

Gian tiền đường và hậu cung được ngăn cách bằng một bức tường dày. Theo các cụ cao niên trong vùng kể lại, trước đây trong đền có tượng Hoàng Lục bằng đồng, hai bên có tượng quan văn, quan võ bằng đất và chuông đồng, hậu cung có nhiều bệ thờ và bát hương, nhưng các hiện vật này đã bị thất lạc. Giá trị còn lại của ngôi đền chính là ở chất liệu xây dựng. Đền được đắp trình tường bằng đất sét trộn với mật mía rất công phu. Đến nay, các bức tường vẫn còn vững chắc, đặc biệt vẫn còn lưu giữ được 4 sắc phong của triều Nguyễn phong cho những người canh giữ đền đang được lưu giữ tại Bảo tàng tỉnh.

 

Ghi nhớ công lao của An Biên tướng quân Hoàng Lục, hằng năm cứ vào 14, 15 tháng Giêng nhân dân trong vùng lại mở hội lớn tại đền.

  • Ngày 14, các nghi thức phần lễ được tiến hành, như: Dâng lễ vật, đọc văn tế với nội dung ca ngợi công lao của Hoàng Lục đã có công gìn giữ vững chắc một dải biên cương của Tổ quốc; Tiếp theo là cầu phúc, cầu lộc cho dân chúng một năm mới vạn sự tốt lành.
  • Ngày 15, các trò chơi dân gian được diễn ra sôi nổi, như: Tung còn, múa Kỳ lân, hát văn nghệ… Đến mùa thu, khi mùa màng đã thu hoạch xong, người dân địa phương lại chọn ngày tốt mổ lợn, làm xôi dâng lên đền để tạ ơn.

Hầu giá Quan Hoàng Lục

Không giống như những vị quan hoàng khác, Quan Hoàng Lục rất ít khi về ngự đồng. Chỉ khi nào đến ngày tiệc chính hoặc thỉnh ông tại đền thờ chính thì ông mới về ngự đồng. Khi về ngự đồng, ông mặc áo đỏ, cũng có nơi khi hầu đồng quan mặc áo đen hoặc áo xanh thêu rồng hình chữ thọ và khoác áo choàng. Khi làm việc, ông khai quang, múa cờ, múa kiếm. Rồi ngự tửu nghe văn và xe giá.

Quan Hoàng Lục

Quan Hoàng Lục

 

Bản văn Quan Hoàng Lục

Chính quê Trùng Khánh Cao Bằng
Có quan Hoàng Lục giáng phàm tối anh linh
Cõi trần gian hữu tình hữu cảnh
Đất Cao Bằng – Trùng Khánh tựa cõi tiên
Lý triều có Đại tướng An Biên
Tiễu trừ giặc Tống giữ yên cõi bờ
Nước Nam Việt đẹp như huyền thoại
Sách trời ghi sáng mãi sử oai hùng
Đức Hoàng Lục ngài thông thạo kiếm cung
Vâng lệnh Thái Úy giữ vùng biên cương
Mười tám tuổi am tường binh pháp
Thông kinh thư sử sách làu làu
Khắp hòa tam thập lục châu
Nức danh gia thế đẹp câu thuận hòa
Khai quang thậm thì diệu
Quang minh chứng đàn duyên
Ngã tích tang cúng dàng
Kim phụng hoàng lân cận
Phật Thánh Chúa Tiên trung vương.
Hoàng Lục có lệnh truyền ra
Các quan thủy bộ cùng là chư dinh
Chuyên cần luyện tập quân binh
Đánh đông dẹp bắc tung hoành mọi nơi
Thái Úy Lý Thường Kiệt đức vời vời sáng
Nhận thấy Hoàng tỏa rạng mưu cơ
Ban cho nào kiếm nào cờ
Cùng ban mật lệnh bất ngờ xuất quân
Dùng chiến thuật chế nhân tiên pháp
Phá kho tàng tiến đánh Tống bang
Châu Liêm cùng với châu Khâm
Xua quân xung kích thỏa tầm trông xa
Sông Như Nguyệt dựng ra phòng tuyến
Dẹp âm mưu xâm chiếm nước ta
Từ Quảng Uyên đến Phục Hòa
Hoàng Lục trấn giữ gần xa thỏa lòng
Mậu Tuất Lý Nhân Tông Chính Hạ
Hoàng Lục ngài từ giã nhân gian
Đoỏng Lình dân lập ngôi đền
Khắp vùng Lũng Đính muôn miền khói nhang
Đức Hoàng Lục độ oan cứu khổ
Ngài hiển linh phù trợ trần gian
Tội công (Ai tội, ai công) ngài biên chép rõ ràng
Tiễu trừ kẻ ác phục hàng quỷ ma
Cũng có lúc Ngài ra trợ phép
Giúp cho người đẹp nết thảo ngay
Có khi dạo gót đông tây
Câu thơ Thái Úy sẵn bày cuộc ngâm
Ngài ngâm rằng:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư!
Đấng anh linh phong tư tài mạo
Rạng vẻ ngoài mũ áo cân đai
Độ cho hai chữ Lộc Tài
Độ cho già trẻ gái trai cát tường
Phép thần thông hô phong hoán vũ
Tài kinh bang tế thế chuyển luân
Nức lòng tướng sĩ ba quân
An Biên đại tướng muôn dân phụng thờ

Ngày tiệc Quan Hoàng Lục

Trong tứ phủ thì ngày tiệc của Quan Hoàng Lục là ngày 19/4. Vì ngài không mấy khi ngự đồng nên rất ít người biết, thậm chí là không biết.

——————

Ngoài sự tích Quan Hoàng Lục An Biên Tướng Quân, dân gian còn biết tới một số sự tích khác được cho là hiện thân của Quan Hoàng Lục gồm Quan Hoàng Lục Thanh HàQuan Hoàng Lục Trần Nhật Duật.

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...