Thứ Hai, 30 tháng 3, 2020

Chúa Cà Phê – Chúa Bói

Chúa Cà Phê còn có tên gọi khác là Chúa Bói, bà được thờ tại Đền Chúa Cà Phê nằm ở Phố Vị, huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn.


Chúa Cà Phê không hay về ngự đồng như Tam Vị Chúa Mường, nhưng nếu có đại tiệc mở đàn Chúa Bói thì người ta cũng hay thỉnh Chúa Bà về. Khi giáng đồng chúa thường mặc áo đen (có nơi hầu Chúa lại mặc áo xanh hoặc áo vàng, tuy nhiên khá ít người hầu chúa mặc màu áo như vậy), chúa về đồng cũng múa mồi”.

Hiện nay, đường đến Đền Chúa Cà Phê rất dễ dàng, xe ô tô đi rất tốt không như trước đây. Ngôi đền vẫn giữ được dáng cổ và khá uy nghi.

Thần tích về Chúa Cà Phê

“Chúa Cà Phê là bà chúa bói người Nùng từ thời thượng cổ (chưa có tài liệu nào ghi chính xác là Chúa Cà Phê giáng hạ dưới thời nào), chỉ biết rằng trong các vị Chúa Bói trên ngàn, bà là người có nhiều quyền phép nhất (có một số quan niệm cho rằng Bà Chúa Cà Phê là Bà Tổ Chúa Bói, tức là bà chúa bói đầu tiên của nước Việt ta), tuy nhiên bà lại sống ẩn dật trong núi, không xuất thế vậy nên ít người biết tới bà, vậy nên bà vẫn phải thỉnh sau Tam Vị Chúa Mường”.




Theo văn hầu của Chúa Cà Phê thì theo tích từ thời Lê Thái Tổ có ghi về sự kiện Chúa Cà Phê đã giáng sinh:

Trong tích cũ Lê triều thái tổ
Một thôn nghèo mán đỏ trên nương
Lam chiều khói tỏa màn sương
Chim kêu vượn hót ven đường hoa chen
Ngày thiêng sổ chọn một giờ
Trời sai tiên nữ cầm cờ giáng sinh
Đêm thanh giờ tý hiện ra điện tiền
Khắp một vùng yên lặng màn đêm
Sao sa sáng tỏ ở bên thềm
Chợt nghe giáng hạ tiên nàng thánh linh.



Cũng theo văn hầu này thì Chúa Cà Phê đã được Thái Thượng Lão Quân luyện phép:

“Dáng phong tư hoa kỳ đua thắm
Luyện phép tiên thái thượng lão quân”
Chính vì vậy mà chúa xem tử vi, xem tướng cứ như thần:
“Tử vi xem tướng như thần
Bói trong gia sự mười phân vẹn mười
Đoán thần tướng thương dân chính đạo
Giải hạn tai chỉ bảo căn ro.”



Chúng ta nên coi Chúa Cà Phê là một trong các chúa bói lâu đời nhất Việt Nam thì đúng hơn bởi Chúa Nguyệt Hồ cũng được coi là chúa bói, trong khi Chúa Nguyệt Hồ có từ thời Hùng Vương và ngoài ra còn một số chúa bói khác được thờ ở nhiều nơi khác. Coi Chúa Cà Phê là Bà Tổ Chúa Bói là còn thiếu cơ sơ. Tuy vậy, ta vẫn phải công nhận Đền Chúa Cà Phê là một ngôi đền thiêng.

Tại sao Chúa lại có tên là Chúa Cà Phê?


Cà Phê là tên loài cây do người Pháp đưa vào trong thời gian người Pháp xâm lược Việt Nam. Như vậy tên Cà Phê mới có cách đây chừng 200 năm. Vậy tên đền là Cà Phê không phải là tên cổ xưa.

Có ý kiến cho rằng: Trước đây, người Pháp cho trồng thử cây Cà Phê ở vùng này. Cà phê mọc không nổi còn công nhân thì ốm đau, tai họa liên miên. Lo sợ không biết vì sao, công nhân đã đến kêu lễ tại một miếu nhỏ vô danh trong khu rừng cà phê. Do cầu đâu được đó, thấy miếu linh thiêng nên công nhân đã góp tiền của xây dựng miếu thành đền. Kể từ đó, đền được gọi là đền Chúa Cà Phê.

Có ý kiến cho rằng ngôi miếu nhỏ này chính là mộ của một cô gái trẻ bị người Pháp ở đồn điền trồng thử cà phê này hiếp chết. Từ ngôi miếu thiêng này từ đó phát triển thành đền chúa Cà Phê. Theo truyền thuyết này thì chúa Cà Phê chính là oan hồn của thiếu nữ oan khuất hiển thánh.

Tại sao Chúa Cà Phê được gọi là Chúa Bói?


Chúa Cà Phê được coi là chúa bói thì cũng thực sự chưa có tài liệu nào xác nhận chính xác mà chỉ là tương truyền. Có ý kiến cho rằng nơi xưa, tại đền Chúa cà Phê có một người xem bói rất giỏi và người đó nói rằng được ăn lộc của Chúa Cà Phê nên mọi người gọi Chúa Cà Phê là Chúa Bói.

Thứ Tư, 29 tháng 1, 2020

Đền Bà Chúa Thượng Ngàn Tam Đảo

 

        Đền Bà Chúa Thượng Ngàn Tam Đảo là một trong những điểm du lịch tâm linh nổi tiếng của du lịch Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Ngoài Đền Bà Chúa Thượng Ngàn nơi đây còn có đền thờ Quốc Mẫu Âu Cơ, chùa Vàng tạo thành một cụm tâm linh Phật - Thánh đầy linh thiêng giữa chốn núi rừng đầy mộng mơ, quanh năm sương trắng. Đền Bà Chúa Thượng Ngàn Tam Đảo còn gọi là Đền Mẫu Thượng Tam Đảo

 

 

        Để đến được cụm tâm linh Phật - Thánh linh thiêng này, ngay dưới chân núi Tam Đảo, km18, chúng ta còn được chiêm bái ngôi đền thờ Nhị Vị Vương Cô Nhà Trần. Trước khi đến thị trấn Tam Đảo mù sương chừng 2 cây số, chúng ta có thể vào dâng hương tại đền thờ Trần Hưng Đạo.

        Thần tích đền Bà Chúa Thượng Ngàn Tam Đảo

        Vào những năm khoảng đầu thế kỉ 20, chính quyền Pháp đã quyết định cho xây dựng Tam Đảo trở thành một trong những điểm nghỉ mát dành cho những vị quan chức Pháp ở Việt Nam. Bên cạnh việc xây lên những căn biệt thự lộng lẫy, Pháp cũng cho làm những con đường để đi lại được dễ dàng hơn. Vào khoảng thời gian ấy, có một nhà thầu phụ là người Việt Nam đã bỏ tiền của ra để xây dựng lên ngôi đền này. Trải qua các bước thăng trầm của lịch sử, thời gian ngôi đền hiện nay đã tố hảo, tráng lệ giữa bạt ngàn rừng xanh.

 

Đường lên đền Bà Chúa Thượng Ngàn

 

       Nơi đây, Bà Chúa Thượng Ngàn được coi là con gái đầu của Quốc  Mẫu Âu Cơ. Đây là một dị biệt về thân thế Mẫu Thượng Ngàn.

        Vài nét về Đền Bà Chúa Thượng Ngàn,  Đền Mẫu Âu Cơ và  Chùa Vàng.

        Sau khi du ngoạn cảnh đẹp của núi rừng Tam Đảo, chúng ta sẽ bước thêm 300 bậc lên lưng chừng đỉnh núi Thiên Thị cao chót vót nơi tọa lạc của cụm du lịch tâm linh. Lối đi có hai hàng tay vịn bê tông cốt thép uốn lượn với những bậc đá quanh co giữa cánh rừng trúc thẳng cao bạt ngàn, thơ mộng, phủ trùm bóng mát khiến ta như lạc vào một cõi thần tiên.

 

 

      Đền Bà Chúa Thượng Ngàn có kiến trúc phương Đông ước lệ, mái lợp ngói miểng Thổ Hà, phía trên ngay cửa chánh điện có đắp phù điêu cặp rồng xanh đang giương nanh múa vuốt (lưỡng long tranh chầu). Các cột trụ vuông bốn mặt giả đăng đỉnh (trụ đèn), dọc cột có những hàng chữ Nho.

        Phía sau đền Bà Chúa Thượng Ngàn là đền Quốc Mẫu Âu Cơ. Trước đây, đền Mẫu Âu Cơ nằm ở Phố Đình, trung tâm thị trấn, bị nhà nước phá, một số người dân đem tượng Bà giấu trong đền Chúa. Năm 1992, một bà thương gia giàu có mua mảnh đất nầy, xây đền, đưa tượng Bà qua thờ. Từ đó, với sự phù hộ linh thiêng của Mẫu Âu Cơ người phụ nữ giàu tâm đức ấy ngày càng thêm phát đạt. Đây là câu chuyện tóm tắt về bà thương gia: Bà vốn ở số nhà 11 Hàng Ngang, năm cải tạo bị nhà nước thu gần hết của cải, nhà cửa. Thế rồi một hôm bà nằm mộng thấy Thánh hiện về sai đi tìm lại đền cũ. Khăn gói bí mật bà ra đi một mình, cứ theo mộng mà đi.  Thế nào loanh quanh mò lên tận đất Tam Đảo. Đến 1992 thì bà mua được khu đất này vốn là nền cũ của đền. Bà đã bỏ tiền đứng ra xây dựng lại ngôi đền".

 

 

       Đền Quốc Mẫu có bàn thờ vị Đệ nhất vương cô – Đệ nhị vương cô, là hai hầu cận của Bà khi xưa. Bên phải thờ Ngũ vị Tôn Ông. Bên trái thờ Tứ Phủ Thánh Bà, là những người trông coi núi vàng của đất nước. Hậu cung thờ Quốc Mẫu Vua Bà. 

      Giữa sân đền có một cây cột vuông màu trắng cao vút, một mặt khắc dòng chữ: “Nguyện xin hòa bình đến với toàn thể nhân loại trên thế giới”. Ba mặt kia khắc các dòng chữ Nhật, Anh và Pháp cùng một nội dung. Cột này do vợ chồng một người Ấn Độ xây tạ ơn Bà đã cho họ một đứa con hằng mong mỏi. Từ đó người ta đồn rằng đền Quốc Mẫu Vua Bà linh thiêng, là nơi cầu xin tình duyên và con cái. Hiện nay, với sự cúng hiến tiền của người hảo tâm, đền đang được xây dựng thêm, khang trang hơn.

     Phía sau đền Quốc Mẫu Vua Bà là Chùa Vàng. Nơi đây có một khoảng sân rộng, nơi trang trọng đặt rất nhiều pho tượng phật đá trắng. Mỗi vị đứng hoặc tọa thiền trong một tư thế khác nhau, vị vui vẻ hiền từ, vị trầm tư ưu sầu cho nhân loại… 

 

     

       Từ đây có một cầu thang dài 121 bậc đá xanh, hai hàng tay vịn cũng bằng đá xanh chạm khắc hoa văn đẹp mắt dẫn lên. Bốn góc chùa là bốn mái hình đao cong vút, được xây mới vào năm 2010. Đáng chú ý là pho tượng Phật Thích Ca bằng đồng nặng cả tấn, đội mão dát vàng, tĩnh tọa trên đài sen bằng bạc. Do khúc xạ của ánh sáng nên khách hành hương thấy tượng phật lúc màu vàng, khi màu tím, rồi màu xanh thẫm… 

       Du lịch Tam Đảo

       Quả thực nếu hành hương về Tam Đảo với chốn tâm linh kỳ diệu mà chúng ta không có đôi chút khám phá thiên nhiên, cảnh vật kỳ vĩ nơi đây thì thật là đáng tiếc. 

 

 

        Nơi đây có nhà thờ cổ Tam Đảo bằng đá từ thời Pháp hết sức cổ kính mang dáng kiến trúc Gothic nổi tiếng;

 

 

        Nơi đây, còn có Thác Bạc mộng mơ luôn tung bọt trắng xóa; tháp truyền hình chót vót trên đỉnh Thiên Thị.


Thứ Năm, 12 tháng 12, 2019

Sự tích Cô Bé Thoải Phủ

Mỗi dịp tết đầu năm, người người nhà nhà đều gác lại công việc bận rộn để quây quần bên gia đình, ôn lại chuyện năm cũ và hướng đến một năm mới tốt đẹp hơn. Trong không khí vui tươi và tràn đầy niềm tin, hi vọng ấy, người ta cũng không quên đi lễ chùa, lễ phủ để cầu mong những điều may mắn sẽ đến với bản thân và gia đình trong tương lai.

Và nếu ai đó thường xuyên đi lễ, tin tưởng vào thế giới tâm linh hẳn đã nhiều lần nghe đến tên Cô Bé Thoải Phủ. Vậy thực tế Cô Bé Thoải Phủ là ai, đi lễ đền cô ở đâu?..v..v.. Sau đây xin mời các bạn cùng đi tìm hiểu để biết thêm nhiều điều về vị thánh này.

Sự tích Cô Bé Thoải Phủ là ai?

+ Trong dân gian, có nhiều sự tích lưu truyền về Cô Bé Thoải, tuy nhiên, cho đến nay, thân thế của cô vẫn chưa được sáng tỏ, và việc cô hiển linh ở đâu, giúp dân như thế nào vẫn còn là một câu chuyện mơ hồ. Vì thế mà những sự tích về cô lưu truyền trong nhân gian có nhiều dị bản.

+ Hiện nay, người ta biết đến Cô Bé Thoải Phủ là một trong trong những vị tiên trong đạo mẫu. Cô xếp hàng thứ 10 trong Tứ Phủ Thánh Cô. Nơi cô cư ngụ là tòa Sơn Trang ở dưới chân thoải cung.

+ Những người đã từng thấy cô hiển linh và được cô cứu vớt đều kể lại rằng, cô là một người vừa có tài lại vừa có sắc. Nét đẹp của cô dịu dàng, kiêu sa và cao quý, đúng khí chất của một nàng tiên. Đồng thời cô là người học rộng hiểu nhiều, kiến thức sâu rộng, uyên bác, trên trời dưới đất không gì không thấu, không một vật gì có thể che được mắt cô.

Đặc biệt, Cô Bé Thoải Cung là người có quyền năng vô thượng. Cô có thể hô mưa gọi gió, có thể cải tử hoàn sinh, cũng có thể biến hóa ra bất kỳ sự vật, hiện tượng nào theo ý muốn. Vì vậy, những sự tích lưu truyền về cô đều chung quan điểm rằng, cô đã từng nhiều lần hiển linh trừ gian diệt ác, cứu khổ cứu nạn và ban phát tài lộc cho nhân dân, giúp dân chúng nhiều vùng có được cuộc sống ấm no, thái bình.

Căn Cô Bé Thoải cung là gì? 

+ Theo tâm linh, căn là linh hồn, là tính cách trời sinh của mỗi con người. Những người có căn Cô Bé Thoải Phủ là những người có tính cách giống với cô. Tương truyền đây là những người kiếp trước tu thân tích đức tốt để lại phúc cho kiếp này, đồng thời là những người ở kiếp trước được Cô hiển linh giúp đỡ vượt qua khó khăn, hoạn nạn nên nguyện ở lại hầu hạ bên cô.

Trong kiếp này, họ tiếp tục được đầu thai làm người và là hình chiếu của cô ở nhân gian, đèn nhang hầu hạ cô và thay cô tích đức tích thiện.

+ Theo đó, những người mang căn Cô Bé Thoải Phủ thường có tính cách giống như một đứa trẻ. Họ thường vô lo vô nghĩ, sống cuộc sống hưởng thụ, tự do tự tại và vui vẻ.

Ta hiếm khi thấy những người mang căn số này ưu phiền, u sầu hay lo lắng khi gặp khó khăn trong cuộc sống. Những người này thường có tính cách tinh nghịch, hiếu động và nhí nhảnh giống như một cô bé mới lớn chưa biết đến lo âu, sóng gió của cuộc đời.

+ Những người mang trong mình căn Cô Bé Thoải Phủ thường rất có hậu. Do trong kiếp trước tu thân tích đức, đồng thời được cô phù hộ độ trì nên trong kiếp này, họ thường có được nhiều tài lộc và bình an. Những người này nếu được cô cho ăn lộc Thánh sẽ phất lên rất nhanh.

Nếu lựa chọn làm ăn kinh doanh, họ sẽ nhanh chóng có được giàu sang phú quý. Nếu lựa chọn con đường học hành thi cử để thăng quan tiến chức, con đường này sẽ rất hanh thông, họ sẽ nhanh chóng có được quyền lực và địa vị xã hội. Bên cạnh đó, những người này sẽ có được một gia đình hạnh phúc viên mãn.

Dâng lễ Cô Bé Thoải Phủ để cầu gì? 

+ Trong đời sống tâm linh, người ta nhắc đến Cô Bé Thoải Phủ là một trong những vị thánh linh nghiệm thiêng nhất. Vì thế mà cứ đến ngày rằm mồng một hay những ngày đầu năm mới, khách thập phương lại dồn về đến thờ cô, dâng hương để cầu khấn nhiều điều.

+ Những người đi lễ Cô Bé Thoải đều nói rằng, cầu Cô là cầu được ước thấy và cô sẵn sàng phù hộ cho mọi điều mà người ta cầu khấn, miễn là thành tâm và những điều cầu khấn ấy không đi ngược lại luân thường đạo lý, kỷ cương phép tắc của đạo mẫu.

+ Theo đó, người ta dâng lễ Cô để cầu phúc lộc và bình an trong cuộc sống. Những ai làm ăn buôn bán có thể đến lễ Cô để cầu cho mua may bán đắt, nhanh chóng ăn nên làm ra, công việc kinh doanh được mở rộng hay ít nhất là tránh thua lỗ trong làm ăn.

Lại có những người đi lễ Cô để cầu được thăng quan phát tài, có được quyền cao chức trọng hay đơn giản hơn là học hành tấn tới, đỗ đạt thành tài, sự nghiệp hanh thông.

Những ai ốm đau bệnh tật cũng có thể đến cầu Cô ban cho sức khỏe để nhanh chóng khỏi ốm, không bị bệnh tật giày vò. Gia đình nào lục đục cũng có thể đến cầu Cô ban cho sự bình yên và hạnh phúc.

Dâng lễ Cô Bé Thoải Phủ cần chuẩn bị những gì? 

Để việc dâng lễ và cầu khấn trước đền thờ Cô được linh kiện nhất, du khách cần thành tâm chuẩn bị đầy đủ những vật sau:

Trước hết là hoa quả tươi. Những loại hoa quả này phải đảm bảo đẹp, lịch sự, không bị thối giữa và không được có mùi khó chịu. Hoa nên sử dụng là hoa cúc, hoa hồng, hoa lay ơn, hoa mẫu đơn,… trong khi quả nên được bày trí thành một mâm ngũ quả.

Sau nữa là một đĩa trầu cau. Để đĩa trầu cau được đẹp và lịch sự, bạn nên têm chúng theo hình cánh phượng.

Bên cạnh đó cũng không được thiếu mâm xôi thịt hoặc mâm xôi con gà.

Ngoài ra bạn cũng phải lưu ý chuẩn bị đầy đủ rượu trắng tinh khiết, thẻ hương và tiền vàng để dâng lên Cô sau khi làm lễ. Điều quan trọng nhất là không được quên sớ ghi danh để Cô hiển linh và phù hộ đúng người.

Cuối cùng, theo kinh nghiệm của nhiều người từng đi lễ Cô Bé Thoải Phủ, mâm lễ dâng lên cô không được thiếu oản. Oản này nên được làm từ gạo nếp ngon không pha tạp và phải có màu trắng. Oản nên trang trí tỉ mỉ, tinh tế để làm cô vừa lòng. Theo đó, oản này nên được trang trí của họa tiết hoa lá, vảy rồng lông phượng ở xung quanh.

Dâng lễ Cô cần lưu ý thêm gì? 

Khi dâng lễ Cô, bên cạnh việc chuẩn bị đầy đủ lễ vật trên, bạn không nên quên tham khảo một vài bài khấn Cô Bé Thoải Phủ để việc cầu khấn của bạn được trôi chảy và có linh nhất.

Khi khấn đền cô, phải ăn mặc chỉnh tề, kín đáo, lịch sự. Phải giữ cử chỉ, lời nói đoan chính văn minh và chỉ được phép cầu khấn những điều không trái với luân thường đạo lý.


Vị trí Đền Cô Bé Thoải Phủ ở đâu? 

Trong dân gian hiện nay có nhiều câu chuyện mơ hồ về những nơi thờ cúng cô trên khắp cả nước. Tuy nhiên, những câu chuyện này đa phần huyễn hoặc, không đúng với sự thật.

Đền thờ Cô Bé Thoải Cung hiện nay được nhiều người biết đến nhất vẫn là đền Bơ Bông ở Hà Trung – Hà Sơn – Thanh Hóa. Đền này cách Hà Nội khoảng 150km theo đường cao tốc  Bắc Nam và cách khoảng 200km nếu di chuyển theo hướng Quốc Lộ 1A. Từ Hà Nội, du khách có thể di chuyển bằng ô tô hoặc xe máy để đến nơi đây với thời gian di chuyển là từ 3,5 đến 5,5 tiếng.

Thứ Bảy, 9 tháng 11, 2019

Sự tích Quan Hoàng Chín

Sự tích Quan Hoàng Chín Cờn Môn và đền thờ quan

Quan Hoàng Chín Cờn Môn hay còn gọi là Ông Chín Cờn, ngài là con đức Vua Cha Bát Hải. Là vị thánh hoàng thứ chín trong hàng Thập vị Thánh Hoàng. Ngài đứng trước Quan Hoàng Mười và đứng sau Quan Hoàng Tám Bát Nùng. Cuộc đời và sự nghiệp của ngài gắn liền với địa danh cửa Cờn (Nghệ An), cũng chính vì thế nhân dân còn gọi là Ông Cờn Môn nổi danh thanh liêm, cứu dân, giúp nước và luôn trợ người hữu duyên.

Hương một triện lòng thành dâng tiến
Cung thỉnh mời Ông Chín Cờn Môn
Khâm thừa thượng đế chí tôn
Sai Quan Hoàng Chín Cờn Môn giáng trần

Ông Chín Cờn Môn

Sự tích Quan Hoàng Chín Cờn Môn

Lưu truyền rằng lúc sinh thời, ngài sống ở Nghệ An, lúc bấy giờ là thời Lý và đi thi nhiều lần nhưng không đỗ đạt. Sau đó, ông xuống tóc và ra cửa biển Cờn lập am miếu tu trì cứu vớt người đi biển. Đồng thời, đây cũng là nơi dừng chân nghỉ ngơi của tàu thuyền qua lại. Tôn truyền, ông là người vớt và chôn cất cẩn thận thân y Thái Tử Nam Tống trong trận đánh với quân Nguyên. Có tài liệu cho rằng, ngài cứu sống ba mẹ con Mẫu Cờn (Thái Hậu Dương Quý Phi). Khi đó, nếu nộp họ cho quan thì sẽ phải làm nô tì, còn để họ lang thang vất vưởng ngoài kia thì sẽ gặp đau khổ. Chi bằng tục huyền lấy họ để nương tựa lẫn nhau nhưng ngài lại bị cự tuyệt, buồn chán dẫn đến quyên sinh.  Sau khi ngài hóa, Mẫu đọc di thư ngài để lại và hiểu rõ được sự việc nên quyết định ra biển Cờn thác hóa. Hai người con cũng theo mẹ ra biển và cũng hóa tại đây. (Cũng có tài liệu ghi chép rằng vào thời nhà Tống, khi quân Tống suy yếu trước quân Nguyên, Thái hậu Dương Quý Phi cùng ba công chúa chạy ra biển, chợt bão nổi bị chết đuối, xác trôi dạt vào cửa Cờn và được lập đền thờ). Sau sự việc này, thuyền bè qua lại qua cửa Cờn đều được chở che, bình an vượt qua sóng bão. Nhân dân địa phương nhận thấy sự anh linh này, liền lập đền thờ 3 mẹ con Mẫu ở lạch Cờn và Hoàng đế Tống Đế Bính ở trên đỉnh núi, đền thờ ông Hoàng Chín ở ngoài biển, tất cả đều được phối hương linh vị ở đền Cờn. Nhân dân gọi ông là ông Chín đền Cờn.

 

Thần tích khác về Quan Hoàng Chín Cờn Môn

Theo sách Ô Châu Cận Lục (NXB Chính Trị Quốc Gia) thì sự tích về Quan Hoàng Chín Cờn Môn được ghi chép như sau:

“Vào đời vua Hùng thứ 13, Hoàng hậu chỉ sinh hai công chúa chứ chưa có hoàng tử nối ngôi. Quần thần thấy Vua đã già mà chưa có người nối ngôi, bèn tâu hãy lập con trai của thứ phi làm thái tử. Vua đáp “Trẫm vừa nghe hậu nói có thai ,vậy hãy đợi xem sao“. Thứ phi nghe vậy sợ rằng con mình không được lập, âm mưu mua chuộc bà đỡ nhờ bà giết con trai của Hoàng Hậu nếu được sinh ra. Bà đỡ trả lời: “Nghề của tôi là cứu người chứ sao lại giết? Nay tôi có mẹo khác làm đứa bé thành ái nam ái nữ, tất nó không được lập“. Đến kỳ hoàng hậu khai hoa, bà đỡ lén lấy lá trong rừng xoa vào bộ phận sinh dục đứa bé. Nhà Vua tuần thú trở về hỏi hậu sinh trai hay gái ? Kẻ tả hữu đáp: “Sinh trai, nhưng chỗ âm dương không đầy đủ“. Hậu nghe được liền nói: “Ta vốn sinh trai, hình hài rõ ràng, nay lại không đủ, tất là do âm mưu của thứ phi“. Từ đó hậu trở nên cau có gắt gỏng. Vua nổi giận hạ lệnh đẩy mẹ con Hoàng Hậu ra ngoài đảo xa, đến cửa Cờn thì mất.

Ngư dân ngủ đêm ở đấy được thần báo mộng rằng “Ta là vua nước Nam, bị kẻ khác rắp tâm hãm hại. Thượng đế thương mẹ con ta nên đã phong làm thần rồi“.

Dân chài khấn rằng “Như thần có linh thiêng, xin phù hộ cho đánh được nhiều cá, chúng tôi sẽ lập đền thờ“.

Quả như lời, ngư dân liền lập đền thờ. Đền rất linh hiển.

Theo tác giả Tuấn Anh đăng trên trang hatvan.vn: Căn cứ bài thơ đêm ngày 04/12 năm Quý Tỵ ngài đã giáng âm cho Nhà ngoại cảm Hoàng Thị Thiêm của Trung tâm Nghiên cứu Ứng dụng Tiềm năng Con người, ngài muốn người đời khi đến khấn ngài thi khấn là THÁI TỬ TRẤN CỬA BIỂN CỜN MÔN. Ngài chính là Hoàng Thái Tử, con vua Hùng thứ 13 bị đầy ra biển Cờn Môn cùng với hai mị nương và Hoàng Hậu tức mẹ của ngài.

Như vậy, theo thần tích này đền Quan Hoàng Chín có từ rất xa xưa, thậm chí hàng ngàn năm trước.

Đền thờ Quan Hoàng Chín Cờn Môn

Đền chính thờ Quan Hoàng Chín tọa lạc ngoài cửa biển, nay là đường ra bãi tắm Quỳnh Phương thuộc phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An. Nơi này còn có tên gọi là đền Cờn ngoài, còn đền Cờn trong thờ Tứ Vị Vua Bà.  Trong đền Cờn Ngoài, ngay phía cung chính giữa thờ Quan Hoàng Chín và Quan Hoàng Mười.

Quan Hoàng Chín Ông Chín Cờn

Cung chính thờ Quan Hoàng Chín Cờn Môn và Quan Hoàng Mười.

Hai bên tả hữu là cung thờ Quan Nam Tào, Quan Bắc Đẩu; hai đầu hồi là cung thờ Cậu bé, Cô bé bản đền. Tới gian thứ hai là cung thờ Ngũ Vị Tôn Quan. Đến gian thứ ba thờ Vua Tống Đế Bính và 3 tướng của ông là: Lục Tú Phu, Lương Thế Kiệt và Văn Thiên Tường

Ngoài đền Cờn, Quan Hoàng Chín Cờn Môn còn được phối thờ tại đền Mẫu Thoải ở Long Biên, Hà Nội cùng với Công Đồng Tứ Phủ, Tứ Vị Vua Bà, Đức Thánh Trần.

Bản văn Quan Hoàn Chín Cờn Môn

Hương một triện lòng thành kính tiến
Cung thỉnh mời Hoàng Chín Cờn Môn
Cửu trùng ngọc bệ chí tôn
Khâm sai Hoàng Chín Cờn Môn giáng trần.
Trên chín bệ cao thâm võng cực
Dưới bách thần mộ đức kinh luân
Cù lao chín chữ quần thần
Sinh Ông Hoàng Chín võ văn toàn tài.
Văn thơ phú so tài Đỗ – Lý
Võ lược thao cái thế Tôn Ngô
Cung tên bẩm trí giang hồ
Tuổi vừa đôi chín đăng khoa Triều đình.
Nỗi bất bình nhân dân cơ cực
Quyết vì đời ra sức lược thao
Chinh y đã nhuộm máu đào
Mười hai cửa bể sớm chiều xông pha.
Cửa Cờn Môn dựng toà soái lĩnh
Lệnh Hoàng truyền nghiêm chỉnh ba quân
Một lòng vì nước vì dân
Trấn an cửa bể dẹp quân bạo cường.
Quyết mở đường dân an quốc thái
Dựng cơ đồ vạn đại dân sinh
Cho dân được hưởng phúc an lành
Nêu cao khí tiết oai linh để đời.
Nước dẫu cạn công người không cạn
Đá dẫu mòn gương sáng còn soi
Bể Nam thơm mãi muôn đời
Cửa Cờn rộng mở cứu người hữu nhân.
Ngẫm cơ tạo xoay vần sống thác
Tóc xanh rồi đầu bạc sớm mai
Ngẫm câu sinh hóa ở đời
Sinh sao cho đáng nên người mới sinh.
Phật hữu tình từ bi tế độ
Quyết lánh đường có có không không
Dẫu rằng thiên tứ đỉnh chung
Thác rồi không lại hoàn không đó mà.
Chữ tu tỉnh gương nga vằng vặc
Bóng soi người hữu đức hữu nhân
Hay gì đạo tặc tham sân
Nhuộm thơ tam nghiệp nghĩa nhân không còn.
Đức nhân sánh càn khôn vũ trụ
Công ơn người muôn thủa không phai
Nhớ ngày mùng chín, tháng hai
Là ngày sinh Thánh ra đời cứu dân.
Tiết trùng cửu quy thần hạc lánh
Nhớ ơn Người dâng kính hương hoa
Rượu quỳnh rót chén đồ tô
Chúc Hoàng muôn tuổi họa thơ mấy vần.

Văn Quan Hoàng Chín đề thơ

Bút pháp tinh anh tửu nhập thần
Hoa khai quả kết vạn gia xuân
Tay tiên đề bút an Thiên hạ
Trăm họ âu ca cổ Thánh thần.
“Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân
Giang tâm như kính thủy vô trần
Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh
Giao vọng Nam thiên ức cố nhân”.
Ngồi tựa khe suối gẩy cung đàn
Chạnh lòng nhớ tới ban tri loan
Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió
Gửi khách Tương Như khúc phượng hoàng.
Thế sự cuộc cờ bày lại xóa
Nhân tình cạn chén mượn hơi men
Hỡi ai! Rượu sớm trà chưa tỉnh
Nặng gánh gươm đàn nợ nước non.
Non sông ghi nhớ người anh kiệt
Cờn hải long lanh nước sóng vàng
Chín bệ có hay lòng sắt đá
Ba ngôi đâu tá tiết chiêu dương.
Soi gươm kim cổ lòng man mác
Phú quý vinh hoa giấc mộng vàng.

Quan Hoàng Chín đề thơ

 

Hầu giá Quan Hoàng Chín Cờn Môn

Quan Hoàng Chín Cờn Môn thường rất ít khi ngự đồng, thường chỉ có người ăn lộc Hoàng và sát căn duyên hoặc về đền thỉnh ngài thì ngài mới se loan giá ngự. Khi ngự đồng ngài thường mặc áo the màu đen, đầu đội khăn xếp đen kiểu cách giống thầy đồ xưa. Sau khai quang tấu hương, ngài thong dong đề thơ mạn cảnh, viết chữ và ban phát tài lộc, tọa nghe văn và xe giá.

Quan Hoàng Chín - Ông Cờn Môn

Ông Chín Cờn Môn

Một số hình ảnh Ông Chín Cờn loan giá ngự đồng

ông chín cờn môn

 

Tuy nhiên, khi hầu giá Quan Hoàng Chín tại đền Sòng Sơn thì lại bắt buộc mặc áo đỏ the hồng, đầu đội khăn xếp đỏ. Lý do giải thích có việc này được hiểu là Ngài đang theo hầu Mẫu Sòng Sơn tại cung cấm nên phải mặc áo the đỏ để ra mắt Mẫu. Khi đó, người ta cũng gọi ngài với danh Ông Hoàng Chín Sòng Sơn.

Khánh tiệc ông Chín Cờn Môn

Ngày tiệc ông Chín Cờn Môn vào ngày 9 tháng 9 âm lịch

 

Chủ Nhật, 22 tháng 9, 2019

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2019

Ban công đồng là gì? Ban công đồng gồm những vị nào?

Ban thờ Công Đồng hay điện thờ Tam Tứ Phủ là nơi thờ cúng Thần Phật, 4 vị vua cha, tam tòa Thánh Mẫu, các vị trong cộng đồng Tam Tứ Phủ.

Khi đi lễ tại các đền phủ ta thường thấy ban công đồng là ban chính và to nhất. Vậy ban công đồng là gì, Ban công đồng thờ những vị nào? Cùng Lịch Vạn Niên 365 tìm hiểu nhé.

1. Ban công đồng là gì?

Ban công đồng là điện thờ tam phủ, tứ phủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Nam.

  • Tam phủ gồm các vị: Quan âm bồ tát, Tam vị vua cha, Tam tòa thánh mẫu.
  • Tứ phủ gồm các vị: Quan âm Bồ Tát, Tứ vị Vua Cha, Tam tòa Thánh Mẫu, Ngũ vị Tôn Quan, Tứ phủ Thánh Chầu, Tứ phủ Thánh Hoàng, Tứ phủ Thánh Cô.

Vua Cha Bát Hải Động Đình tức Đấng A-di-đà hay danh trong Đạo Giáo là Nguyên Thủy Thiên Tôn hay Thái Cực. Ngài là Khối Sáng nơi phát xuất ra tất cả Đại Linh Quang và tất cả anh linh thấp cao bản thể của tế bào đến cây cỏ sinh vật.

Tượng thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế thì Thượng Đế chỉ có một chính là Ngài còn Ngọc Hoàng thì có nhiều như từ Lưỡng Quảng đến đỉnh Hoành Sơn có Ngọc Hoàng là Mẫu Mẹ Âu Cơ, từ Mũi Cà Mau đến đỉnh Đèo Ngang có Ngọc Hoàng là Bà Chúa Ngọc. Mảnh đất Trung Hoa có Ngọc Hoàng là Bảo Linh Thiên Tôn. Trong mỗi vùng đất Ngọc Hoàng có thể là một Đấng Khởi Thủy trong Đại Đỉnh Thập Tuyệt Chân Linh (Nhị Bộ Lưỡng Nghi) hay những Đại Sứ Giả từ Thượng Đế gửi xuống sau 10 vị này.


Tượng Nam Tào thờ những Đấng Tối Cao ngự tại chòm sao nam tào

Tượng Bắc Đẩu thờ những Đấng Tối Cao ngự tại chòm sao bắc đẩu.

2. Ban công đồng gồm những vị nào?

Ban thờ Công Đồng hay điện thờ Tam Tứ Phủ là nơi thờ cúng Thần Phật, 4 vị vua cha, tam tòa Thánh Mẫu, các vị trong cộng đồng Tam Tứ Phủ.

2.1 Hàng thứ nhất: 

Trên cùng là đức quán thế âm bồ tát, ngài đại diện cho Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng trong đạo Phật. Theo huyền tích lưu lại thì Vân Hương Thánh Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh) quy y tam bảo và là đệ tử của đức Phật sau này ngài nên chính quả được tương truyền là Mã Hoàng Bồ Tát. Trong các đền thờ có thể thờ phật mẫu chuẩn đề, Phật Thích Ca, hay tam thế Phật.. làm đại diện.

2.2 Hàng thứ hai: 4 vị vua cha gồm

  • Vua cha Thiên phủ (Ngọc hoàng thượng đế) có quyền hạn lớn nhất lục giới; cai quản toàn bộ lục giới: Nhân – Thần – Ma – Yêu – Quỷ – Tiên. Trong Đạo Mẫu Việt Nam Ngọc hoàng được gọi là Vua cha ngọc hoàng (là cha của Thánh Mẫu Liễu Hạnh).
  • Vua cha Bát hải động đình Vĩnh công đại vương.
  • Vua cha Nhạc phủ – Tản viên Sơn Thánh: Vua cha Nhạc phủ là một vị thần tối linh trong Tứ bất tử của Việt Nam. Đức Thánh Tản là cha của Mẫu Thượng Ngàn, tức La Bình Công Chúa. Trong tứ bất tử thì Tản viên Sơn thánh là vị đứng đầu, ngài còn được phong là Nam Thiên Thánh Tổ.
  • Vua cha Diêm Vương: Vua cha Diêm vương còn gọi là Địa phủ Thánh đế Thập điện Minh Vương tòa Chương Địa Phủ, là vị Vua cha gắn liền trong tín ngưỡng Tam tứ phủ, ngài cai quản miền đất.

(Ngoài nội dung đã ở trên xin bổ sung thêm một ý kiến khác để các bạn cùng hiểu thêm: Các vị vua cha chỉ gồm 3 vị: Vua cha Ngọc Hoàng cai quản thiên giới. Vua cha Bát Hải cai quản các công việc dương gian.

  • Vua cha Diêm Vương cai quản âm giới. Chính vì vậy mới có câu: Tam phủ Công Đồng. Nhạc phủ cũng được tính dưới quyền cai quản của vua Cha Bát Hải. Tản Viên Sơn Thánh nếu xét trong lịch sử thì Ngài không thể xếp ngang hàng với 3 vị vua cha kia được).

2.3 Hàng thứ ba: 

Là tam tòa Thánh Mẫu: Mẫu Đệ Nhất (áo đỏ), Mẫu Đệ Nhị (áo xanh), Mẫu Đệ Tam (áo trắng).

2.4 Hàng thứ tư: 

Là ngũ vị tôn quan : Quan Đệ Nhất (áo đỏ), Quan Đệ Nhị (áo xanh), Quan Đệ Tam (áo Trắng), Quan Đệ Tứ (áo vàng), Quan Đệ Ngũ (áo xanh da trời đậm)

2.5 Hàng thứ năm:

Là tứ phủ thánh Chầu với các vị đại diện là Chầu Đệ Nhất (áo đỏ), Chầu Đệ Nhị (áo xanh), Chầu Đệ Tam (áo trắng), Chầu Đệ Tứ (áo vàng), Chầu Lục (phía ngoài cùng bên phải), Chầu Bé (phía ngoài cùng bên trái)

2.6 Hàng thứ sáu:

Là tứ phủ thánh hoàng với đại diện là ông Hoàng Cả (áo đỏ), Hoàng Bơ (áo trắng), Hoàng Bảy (áo xanh lam đậm). Hoàng Mười (áo vàng)

2.7 Hàng thứ bảy:

Là tứ phủ thánh cô (bên trái) và tứ phủ thánh cậu (bên phải).

  • Phía bên trái có các vị đại diện là Cô Bơ (áo trắng), Cô Tư (áo vàng), Cô Chín (áo hồng) và Cô Bé Thượng Ngàn (áo chàm xanh).
  • Phía bên phải có các vị đại diện là Cậu Cả (áo đỏ), Cậu Bơ (áo trắng), Cậu Tư (áo vàng), và Cậu Bé (áo xanh).

Qua bức tranh ta thấy các vị thánh đại diện ở mỗi hàng đều tương ứng với tứ phủ (một cách tương đối):

Thiên phủ (màu đỏ hoặc hồng)

Nhạc Phủ (màu xanh lá cây, xanh chàm..)

Thoải Phủ (màu trắng)

Địa Phủ (màu vàng).

Tín ngưỡng thờ Mẫu, tam tứ phủ là tín ngưỡng tôn thờ toàn vũ trụ (thiên địa thủy nhạc) có thờ cả nam thần – nữ thần, thiên thần – nhân thần, các vị hiển tích ở miền xuôi cũng như miền ngược… Cao hơn hết là Thánh Mẫu , người mẹ của tâm linh luôn có lòng bao dung độ lượng thương xót chúng sinh. Cửa Mẫu luôn rộng mở để chờ đón chúng ta, những khi vui hãy tìm đến Mẹ, lúc ta buồn hãy mở lòng tâm sự với Mẹ, Lúc khốn khó lại tìm đến mẹ để cầu xin mẹ che chở giúp đỡ chúng ta. Hãy an tâm trong cuộc sống bởi ta đã có mẹ, luôn có mẹ và mãi mãi có Mẹ. Mẹ là tất cả.

Mỗi người mỗi nước mỗi non
Đã về cửa mẹ như con một nhà…

3. Văn khấn lễ Ban Công Đồng

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)
Con lạy chín phương trời, mười phương Chư phật, Chư phật mười phương
Con lạy đức Vua cha Ngọc Hoàng Thượng đế
Con lạy Tam Toà Thánh Mẫu


Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh
Con lạy Tứ phủ Khâm sai
Con lạy Chầu bà Thủ Mệnh
Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Hoàng

Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cô
Con lạy Tứ phủ Đức Thánh Cậu
Con lạy cộng đồng các Giá, các Quan, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
Con lạy quan Chầu gia.
Hương tử con là:……………………
Cùng đồng gia quyển đẳng, nam nữ tử tôn
Ngụ tại:……………………………….
Hôm nay là ngày….. tháng….. năm. Tín chủ con về đây……… thành tâm kính lễ, xin Chúa phù hộ độ trì cho gia đình chúng con sức khoẻ dồi dào, phúc thọ khang ninh, cầu tài đắc tài, cầu lộc đắc lộc, cầu bình an đắc bình an, vạn sự hanh thông, gặp nhiều may mắn.

Nam mô A Di Đà Phật (3 lần)

NỔI BẬT

Những ngôi đền, chùa tại Kiên Giang

  1- Thành phố Rạch Giá  Đình Thần Nguyễn Trung Trực 07 Nguyễn Công Trứ, Vĩnh Thanh, Rạch Giá, Kiên Giang, Việt Nam Vân Long Tự Nguyễn Bỉnh...